Xu hướng đa dạn hóa, chuyển dịch chuỗi cung ứng, sản xuất, nghiên cứu của ngành công nghiệp bán dẫn là cơ hội cũng là thách thức với Việt Nam. Nếu chuẩn bị tốt nguồn nhân lực thì Việt Nam sẽ nhận được tin tưởng của các đối tác, xúc tiến thu hút đầu tư, phát triển chuỗi sản xuất và cung ứng bán dẫn, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính.
Phát biểu khai mạc Hội nghị phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp bán dẫn do Văn phòng Chính phủ phối hợp cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức hôm 24/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, ngành công nghiệp bán dẫn có vai trò rất quan trọng, là nền tảng của 3 sự chuyển đổi mang tính cách mạng: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi thông minh.
Hiện nay, ngành công nghiệp bán dẫn trên thế giới phân bố và phát triển không đều, tập trung tại một số nền kinh tế như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu, Đài Loan (Trung Quốc).
Trong bối cảnh hiện nay, do nhiều lý do khác nhau, ngành công nghiệp bán dẫn đang có xu hướng đa dạng hóa, chuyển dịch chuỗi liên kết, cung ứng, sản xuất, nghiên cứu sang các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam.
Đây là cơ hội và cũng là thách thức với Việt Nam, khi đòi hỏi phải có hạ tầng, thể chế và nhân lực phù hợp để đáp ứng yêu cầu phát triển, thu hút đầu tư ngành công nghiệp bán dẫn.
Theo Thủ tướng, nhân lực cũng một trong những yếu tố được các đối tác trông chờ ở Việt Nam. Nếu chuẩn bị tốt nguồn nhân lực thì Việt Nam sẽ nhận được tin tưởng của các đối tác, xúc tiến thu hút đầu tư, phát triển chuỗi sản xuất và cung ứng bán dẫn.
Từ cuối năm 2023, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, với mục tiêu đào tạo 50-100 nghìn kỹ sư bán dẫn.
Thủ tướng cho biết, hội nghị được tổ chức nhằm lắng nghe các ý kiến để đạt mục tiêu nói trên trong thời gian ngắn nhất có thể. Gợi ý về cách làm, Thủ tướng cho rằng vừa cần giải pháp tiệm tiến, vừa cần các giải pháp đột phá.
Về cách làm tiệm tiến, Thủ tướng cho rằng trên nền tảng phát triển công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin đã có, Việt Nam có thể dịch chuyển chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, điện tử sang lĩnh vực bán dẫn. Cùng với đó, hình thành thêm một số khoa tại các cơ sở đào tạo, một số phòng tại các đơn vị nghiên cứu; tận dụng tối đa cơ sở vật chất đã có và bổ sung thêm.
Thủ tướng đề nghị các đại biểu góp ý về những công việc cần triển khai của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, các bộ ngành, cơ quan quản lý nhà nước, Chính phủ và các địa phương, “để mở chiến dịch đào tạo nhân lực ngành bán dẫn trên cơ sở tận dụng cơ sở vật chất, nguồn lực hiện có, điều chỉnh phù hợp để đạt mục tiêu đề ra nhưng không xáo trộn quá nhiều”.
Thủ tướng cũng đề nghị các đại biểu phát biểu, góp ý thêm về các giải pháp mang tính đột phá để đẩy mạnh đào tạo nhân lực bán dẫn.
Trao đổi về Đề án “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng đề xuất 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Đề án.
Một là đào tạo giảng viên, sinh viên hệ chính quy; đào tạo nhân lực trình độ sau đại học; đào tạo hệ ngắn hạn, chuyển tiếp; khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tham gia đào tạo;
Hai là đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển
Ba là đầu tư cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ phục vụ đào tạo;
Bốn là thu hút chuyên gia, nhân tài;
Năm là tạo đầu ra cho nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp;
Sáu là xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù cho đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn;
Bảy là các giải pháp về hợp tác quốc tế, truyền thông và hỗ trợ triển khai khác.
Còn theo Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng: Khi làm Chiến lược quốc gia về ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam, chúng tôi có đánh giá về lợi thế của Việt Nam.
Thứ nhất là lợi thế địa chính trị liên quan đến ngành công nghiệp bán dẫn. Nếu như lấy Việt Nam làm tâm quay vòng tròn thì sẽ gồm 80% ngành công nghiệp bán dẫn thế giới. Nghĩa là Việt Nam là trung tâm toàn cầu.
Thứ ba, trước mắt xây dựng Việt Nam thành tháp nhân lực toàn cầu về ngành công nghiệp bán dẫn từ nay đến năm 2030. Từ tháp nhân lực này tiến tới ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam. Tháp nhân lực sẽ như nam châm thu hút nghiên cứu, sản xuất về Việt Nam.
Khả năng đáp ứng các nhu cầu về nhân lực chủ yếu là đi vào đào tạo lại và đào tạo trực tiếp trong ngắn hạn. Các nước khác muốn đào tạo một kỹ sư điện tử làm về công nghiệp bán dẫn phải đào tạo trong khoảng 2 năm nhưng ở Việt Nam chỉ cần 3-6 tháng hoặc 12 tháng.
Ngoài ra, nhân lực cũng được xác định là “lõi” để xây dựng ngành công nghiệp bán dẫn. Phải có thỏa thuận quốc gia cung cấp nguồn nhân lực mới bảo đảm thành công đề án nhân lực. Đào tạo nhân lực cũng phải dựa trên tín hiệu thị trường, đặc biệt có các thỏa thuận doanh nghiệp và thảo thuận của các quốc gia.
Thứ tư là sự kết hợp giữa FDI và tự cường. Việt Nam đang tiến tới tự cường trong dài hạn, vẫn thu hút đầu tư nước ngoài vào các công đoạn của công nghiêp bán dẫn, kể cả sản xuất. Việt Nam đang làm tốt FDI những chưa làm tốt tự cường nên chúng ta cần đi đều cả hai chân.
Thứ năm là xây dựng hệ sinh thái về công nghiệp bán dẫn. Nếu chúng ta không phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ về chip bán dẫn hay không tạo điều kiện cho họ “ngốn” nguồn nhân lực kia thì đề án về nguồn nhân lực cũng sẽ gặp khó khăn. Do đó cần phát triển công nghiệp bán dẫn trong hệ sinh thái quốc gia. Trong ngắn hạn có thể hệ sinh thái với một số quốc gia.
Đang có chiến dịch chạy đua toàn cầu về thu hút FDI. Chúng ta nên lấy lợi thế địa chính trị, nhân lực, hạ tầng là chính để tạo ra sức cạnh tranh của mình.
Ngoài ra, ngành công nghiệp bán dẫn xác định một yếu tố nữa là kết hợp với thị trường. Trong ngành công nghiệp bán dẫn là ngành công nghiệp liên quan đến trọng yếu quốc gia nên vai trò dẫn dắt của Nhà nước là quan trọng. Trong Chiến lược cũng nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như doanh nghiệp lớn trong phát triển ngành công nghiệ bán dẫn để bảo đảm tính linh hoạt, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
PGS.TS. Vũ Hải Quân – Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chúng tôi nhận thấy có 5 thách thức trong quá trình đào tạo nhân lực vi mạch:
Thứ nhất là nguồn tuyển. Hiện nay các em sinh viên vẫn còn mơ hồ về ngành thiết kế vi mạch nói riêng và công nghệ bán dẫn.
Thứ hai là đội ngũ đảm nhận. Ngay cả Đại học Quốc gia quy mô lớn như vậy nhưng tốt nghiệp chuyên ngành về bán dẫn là tiến sĩ chỉ đếm trên đầu ngón tay
Thứ ba là chương trình đào tạo mới và thay đổi liên tục.
Thứ tư là chỗ thực tập cho sinh viên. Học ngành này, ngoài những lý thuyết trên lớp còn phải thực tập, thực hành thực tiễn thì mới có thể bắt tay vào làm việc được.
Thứ năm là các nghiên cứu về đổi mới sáng tạo và startup.
Ông Phùng Việt Thắng, Giám đốc Quốc gia Intel tại Việt Nam
Trong công nghiệp bán dẫn, có nhiều công đoạn khác nhau và mỗi một công đoạn yêu cầu nguồn nhân lực khác nhau. Chính vì thế dù chúng ta có một chiến lược chung để phát triển nguồn nhân lực công nghiệp bán dẫn đi chăng nữa thì cũng cần có kế hoạch hành động riêng và đặc thù cho mỗi đối tượng nhân lực mà chúng ta cần phát triển, phù hợp với thế mạnh của Việt Nam.
Như các bộ trưởng đã chia sẻ, có vẻ như chúng ta sẽ có lợi thế khi đi vào những công đoạn bán dẫn không đầu tư quá nhiều về tài chính mà đầu tư về con người thì sẽ phù hợp hơn. Chính vì thế nên có vẻ chúng ta đang tập trung vào nguồn lực làm việc ở trong ba lĩnh vực: Một là thiết kế bán dẫn thì có vẻ số lượng sẽ đông; thứ hai là nguồn lực làm việc trong những nhà máy sản xuất bán dẫn, thì nguồn lực này quá đặc thù và chắc sẽ không thể đông được; thứ ba là nguồn lực trong các nhà máy kiểm thử thì có thể nhiều hơn một chút nhưng cũng không đông. Vậy số lượng khác nhau và chất lượng yêu cầu cũng khác nhau, cho nên kế hoạch thực hiện cũng phải khác nhau.
Về nguồn nhân lực nói chung của Việt Nam, có thể nói nhìn một cách vô cùng tích cực là tính sẵn sàng rất cao, từ những ngành đào tạo gián tiếp, đào tạo cơ bản hay đào tạo trực tiếp đều có tính sẵn sàng cao. Nhưng tôi xin lưu ý là mặc dù tính sẵn sàng cao nhưng để làm việc được độc lập thì chúng ta có khoảng cách không nhỏ và những chính sách bàn bạc hôm nay cần xây được những cầu nối giữa sự sẵn sàng đó với sự chấp nhận của ngành công nghiệp bán dẫn thì chắc chắn chiến lược của Việt Nam sẽ thành công.
này đặc biệt quan trọng. Nếu không có chế tạo mẫu để thử xem mình làm đúng đến đâu, sai ở đâu thì không bao giờ thành công và đặc biệt là nếu có cơ chế hỗ trợ chế tạo mẫu thì sẽ tạo ra được sản phẩm có khả năng thương mại hóa cao hơn. Muốn có các sản phẩm mẫu thành công, cần phải có cơ chế khuyến khích thị trường chấp nhận sản phẩm đó.
Ngoài ra bán dẫn và IA là hai lĩnh vực không tách rời nhau và nếu chúng ta có chính sách phát triển công nghiệp bán dẫn thì cũng cần có chính sách cụ thể để phát triển IA đi cùng. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể phát triển và đi trước về bán dẫn, cho nên đây cũng là một lực kéo rất là tốt cho IA phát triển.
Cuối cùng, nguồn nhân lực ở nước ngoài vô cùng quan trọng có thể giúp chúng ta vừa đảm bảo chất lượng đã được kiểm chứng ở trên thị trường toàn cầu đồng thời cũng rút ngắn được thời gian để chúng ta có thể bắt kịp được năng lực của ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu và phục vụ cho nhu cầu trong nước. Vì vậy cần phải có chính sách để thu hút nguồn lực nhập khẩu này.
Phan Long (T/h)