22/03/2024 12:07:03

Kỷ niệm Ngày Công tác xã hội Việt Nam 25/3:

Đối tượng yếu thế chiếm 20% dân số có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội

Theo Cục Bảo trợ xã hội Bộ LĐ-TB&XH, hiện ước tính số  người yếu thế, dễ bị tổn thương, có hoàn cảnh khó khăn có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội chiếm khoảng 20% dân số. Thực trạng này đặt ra nhiệm vụ cần sớm hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về công tác xã hội (CTXH) nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu an sinh đối với các đối tượng yếu thế,dễ bị tổn thương trong xã hội.

Bước đầu hình thành được khung pháp lý công tác xã hội (CTXH)

Theo Bộ LĐ–TB&XH sau hơn 10 năm triển khai chương trình phát triển công tác xã hội, (Đề án 32/2010/QĐ–TTg ngày 25 tháng 10 năm 2010) khung pháp lý phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp đã được hình thành, hoàn thiện khá đầy đủ, toàn diện; mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội đã hình thành, phát triển với hàng nghìn cơ sở; đội ngũ công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên làm công tác xã hội chuyên nghiệp đã được hình thành với khoảng 235 nghìn người.

Trong đó có 35.000 công chức, viên chức và người lao động làm việc tại các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội công lập và ngoài công lập, gần 100 nghìn người làm việc tại các hội, đoàn thể các cấp; trên 100 nghìn cộng tác viên giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ trẻ em và phát triển cộng đồng…; việc đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, số lượng các cơ sở có đào tạo chuyên ngành công tác xã hội tăng nhanh.

Hiện nay, có 55 trường đại học, cao đẳng và 21 cơ sở dạy nghề có đào tạo chuyên ngành công tác xã hội, so với năm 2010 chỉ có 1-2 cơ sở; đã triển khai nhiều mô hình công tác xã hội trong lĩnh vực giảm nghèo, chăm sóc phục hồi chức năng cho trẻ em tự kỷ; giáo dục, y tế, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, phụ nữ thanh niên….Tuy nhiên thực tế nhu cầu xã hội về CTXH đang đặt ra những đòi hỏi cấp thiết về hoàn thiện hệ thống pháp lý về nghề công tác xã hội.

Đối tượng yếu thế chiếm 20% dân số có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội

Báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH cho biết, hiện nay ước tính số lượng người yếu thế, dễ bị tổn thương, có hoàn cảnh khó khăn có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội chiếm khoảng 20% dân số; trong đó có khoảng 17 triệu người cao tuổi, 7,06 triệu người khuyết tật, 10 triệu người có vấn đề sức khỏe tâm thần, 2 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khoảng 2,23% hộ nghèo và 3,1% hộ cận nghèo, 3,3 triệu người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và 1,5 triệu lượt hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm.

Cùng với đó, Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hoá dân số nhanh nhất thế giới và dự báo đến năm 2025, tỷ lệ người cao tuổi của Việt Nam sẽ vào khoảng 20% và năm 2035 sẽ là 30% dân số. Ngoài ra, tình trạng bạo lực, bạo hành gia đình, phụ nữ, trẻ em bị ngược đãi, bị buôn bán, bị xâm hại; trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố, các vấn đề về hôn nhân gia đình, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm và vấn đề già hóa dân số đang tiếp tục là những vấn đề xã hội nóng, bức xúc cần phải tập trung giải quyết.

Hạn chế của thống pháp lý công tác xã hội trong bối cảnh mới

Cùng với khó khăn do số đối tượng yếu thế cần trợ giúp công tác xã hội tăng là hạn chế khuôn khổ pháp lý phát triển nghề công tác xã hội chưa được hoàn chỉnh, đặc biệt là vai trò, nhiệm vụ của cán bộ, viên chức, nhân viên công tác xã hội chưa được xác định cụ thể trong một số Bộ luật, Luật liên quan như Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Trẻ em….

Chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với cán bộ, nhân viên công tác xã hội làm việc trong các cơ sở trợ giúp xã hội chưa được ban hành; sự phối hợp liên ngành còn hạn chế; chưa có cơ sở pháp lý quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm công tác xã hội cấp tỉnh. Việc áp dụng mã số, chức danh, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức công tác xã hội còn nhiều bất cập. Các văn bản quy phạm pháp luật phát triển nghề công tác xã hội chưa được hệ thống hóa.

Mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Mạng lưới các cơ cung cấp dịch vụ công tác xã hội mới hình thành ở ngành Lao động-Thương binh và Xã hội là chủ yếu, bước đầu được thí điểm ở các ngành Y tế, Giáo dục Đào tạo với phạm vi, quy mô nhỏ, số lượng đối tượng được hưởng dịch vụ rất hạn chế. Các dịch vụ công tác xã hội chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân; cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội còn thiếu thốn; năng lực cung cấp dịch vụ công tác xã hội và chăm sóc, trợ giúp các đối tượng của các cơ sở đạt hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của đối tượng, chưa dựa vào cộng đồng.

Đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội còn mỏng và chưa được đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp; đa số được đào tạo từ ngành nghề khác hoặc một số ít thậm chí không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Đặc biệt, đội ngũ cộng tác viên công tác xã hội tại cộng đồng mới chỉ được bước đầu được hình thành tại một số địa phương.

6 nhiệm vụ trọng tâm phát triển CTXH chuyên nghiệp

Để phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp ngày càng đáp ứng nhu cầu xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, theo Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Văn Hồi cần tập trung vào 6 giải pháp trọng tâm sau:

  1. Thực hiện tốt sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về tăng cường công tác xã hội, đặc biệt Nghị quyết Đại hội XIII, tổ chức triển khai thực hiện tốt Quyết định số 112/QĐ-TTg ngày 22/1/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển công tác xã hội giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh phát triển công tác xã hội tại các ngành, các cấp, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo từng giai đoạn; đảm bảo nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội trên các lĩnh vực, đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ công tác xã hội của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả. Tập trung tăng cường Công tác xã hội trong hệ thống tư pháp, phòng chống bạo lực bạo hành gia đình; tư pháp đối với người chưa thành niên.
  2. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về phát triển công tác xã hội, tập trung: Trình Chính phủ ban hành Nghị định về Công tác xã hội; sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan để phát triển công tác xã hội theo hướng làm rõ vai trò, nhiệm vụ của cán bộ, nhân viên công tác xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa, phát huy vai trò của các tổ chức ngoài công lập trong cung cấp dịch vụ công tác xã hội;nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Trợ giúp xã hội; tổng kết, đánh giá thi hành Luật Người cao tuổi, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật; tổng kết, đánh giá các chương trình mục tiêu quy hoạch giảm nghèo, nông thôn mới, dân tộc và miền núi, quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050; nghiên cứu, đề xuất xây dựng Sàn an sinh xã hội quốc gia, Bộ chỉ số giám sát an sinh xã hội;
  3. Phát triển mạng lưới tổ chức cung cấp các dịch vụ công tác xã hội và mạng lưới nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội trong các trường học, bệnh viện, hệ thống tư pháp; trong đó, tập trung phát triển các dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, giải quyết vấn đề nghèo đói và những vấn đề xã hội khác;
  4. Hoàn thiện chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo theo hướng hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên công tác xã hội và thiết lập mạng lưới nhân viên công tác xã hội trong các trường học, bệnh viện và cộng đồng; hoàn thiện pháp luật giáo dục đào tạo công tác xã hội, xây dựng chuẩn…..
  5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phát triển công tác xã hội,định hướng người dân tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công tác xã hội một cách hiệu quả và bền vững;
  6. Chú trọng, tăng cường hợp tác quốc tế phát triển nghề  công tác xã hội.

Nhiều quy định liên quan đến vị trí, vai trò, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và các chính sách bảo đảm, hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội trong các văn bản luật pháp chưa rõ ràng. Các chính sách bảo đảm, hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội đối với các đối tượng thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế, như quy định về chế độ thụ hưởng chưa phù hợp với đặc thù của công việc mà họ đảm nhiệm, thực hiện. Bên cạnh đó, chế độ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội cũng chưa rõ, đặc biệt là đối với các đối tượng trong các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội.

Quỳnh Trang