08/05/2025 2:04:08

Trao quyền và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN: Vấn đề cần quy định rõ trong Luật GDNN sửa đổi

PGS.TS. Mạc Văn Tiến

Luật Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2014  và có hiệu lực thi hành từ 1/7/2015 (sau đây gọi tắt là Luật GDNN 2014). Luật GDNN được thông qua có nhiều nội dung mới hơn so với Luật dạy nghề (2006), đã tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của GDNN trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, trải qua 10 năm thực hiện, Luật GDNN 2014 đã bộc lộ nhiều hạn chế và nhiều nội dung không còn phù hợp với bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng cường hội nhập quốc tế trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư (CMCN 4.0).

Luật GDNN 2014 đã bộc lộ nhiều hạn chế sau 10 năm ban hành
  1. Quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ nhiều nhưng khá chung, chưa tường minh và tản mát

Trước những tồn tại, bất cập của Luật GDNN 2014 và trước những yêu cầu phát triển mới của đất nước, Luật GDNN cần phải điều chỉnh, bổ sung triệt để. Được biết, hiện nay Chính phủ đã giao cho cơ quan quản lý nhà nước (Bộ GD-ĐT) triển khai sửa đổi Luật GDNN 2014. Có nhiều nội dung, nhiều điều khoản cần được sửa  đổi, bổ sung. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ đề cập đến những nội dung có liên quan đến vấn đề  trao quyền và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN.

Trong hệ thống pháp luật của Việt nam, các quy định về “Quyền” thường gắn với “Nghĩa vụ”, gắn với “Trách nhiệm”. Trong Luật GDNN 2014 Quyền và Nghĩa vụ, trách nhiệm được quy định ở nhiều điều khoản khác nhau. Riêng đối với cơ sở GDNN, các phạm trù  này, nhất là các quy định về “Quyền” được nêu ở các Điều 11 (Hội đồng trường); Điều 12 (Hội đồng quản trị);  Điều 13 (Giám đốc Trung tâm GDNN); Điều 14 (Hiệu trưởng trường Trung cấp, trường Cao đẳng);  Điều 16 “Phân hiệu của trường trung cấp, cao đẳng”.

Đặc biệt có các Điều 23, Điều 24 quy định  cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở GDNN và Điều 25 quy định về tự chủ của cơ sở GDNN….Ngoài ra,  quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ sở GDNN còn được quy định ở nhiều điều thuộc các chương, mục khác nhau như tại Chương III (Hoạt động đào tạo), trong các Điều 32 (Tuyển sinh đào tạo), Điều 34 (Chương trinh đào tạo), Điều 39 (Hợp đồng đào tạo), Điều 40 (CTĐT thường xuyên), Điều 44 (Văn bằng, chứng chỉ trong đào tạo thường xuyên) hoặc trong các điều của Mục 3 của Chương III về Hợp tác quốc tế trong GDNN…

Luật GDNN 2014 quy định quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ nhiều nhưng khá chung, chưa tường minh và tản mát

Nhìn chung, các quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm được quy định trong khá nhiều điều của Luật GDNN 2014, theo chúng tôi khá tản mãn và chưa thật sự tường minh giữa quyền và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN và các chủ thể trong cơ sở GDNN như Hiệu trưởng/ Giảm đốc, Phó Hiệu trưởng/ Phó Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng trường, Chủ tịch Hội đồng quản trị…

Các quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm được quy định trong khá nhiều điều của Luật GDNN 2014, còn khá tản mãn và chưa thật sự tường minh giữa quyền và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN và các chủ thể trong cơ sở GDNN như Hiệu trưởng/ Giảm đốc, Phó Hiệu trưởng/ Phó Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng trường, Chủ tịch Hội đồng quản trị…

  1. Một số khuyến nghị cần sửa đổi các quy định về quyền và nghĩa vụ trách nhiệm của cơ sở GDNN

Trước hết, theo chúng tôi, cần hiểu rõ hơn vấn đề quyền và trao quyền/giao quyền và vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình. Khái niệm quyền là khái niệm Luật học, theo đó quyền được hiểu là những điều pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức, theo đó, cá nhân và tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế.  Ví dụ, Hiến pháp Việt nam quy định trẻ em có quyền được đi học, người dân có quyền được học tập và quyền này không được ai ngăn cấm…

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc tăng cường phân quyền và trao quyền/giao quyền cho cơ sở, các cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) trung ương cần đẩy mạnh phân quyền và trao quyền/giao quyền cho địa phương, cơ sở để thực hiện phương châm “gần dân hơn, sát dân hơn” và quản lý hiệu quả hơn. Chủ trương này cần được thể chế hóa trong các quy định pháp luật, và trong trường hợp này, là cụ thể hóa trong các quy định của Luật GDNN sửa đổi.

Tuy nhiên, cần hiểu rõ về phân quyền và trao quyền/giao quyền. Theo cách hiểu phổ quát nhất, phân quyền là việc một người/tổ chức (cấp trên), cấp quyền cho người/tổ chức khác (cấp dưới) thực hiện những nhiệm vụ hoặc công việc nhất định. Giao quyền (còn gọi là trao quyền) là việc chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm cho người khác/tổ chức khác (cấp dưới, cấp thấp hơn) để thực hiện một số nhiệm vụ hoặc công việc nhất định.

Người/tổ chức được giao quyền có toàn quyền quyết định và thực hiện nhiệm vụ đó trong phạm vi được giao quyền. Ví dụ Bộ GD-ĐT giao quyền quản lý nhà nước trên địa bàn một tỉnh, thành phố cho Sở GD-ĐT thì Sở GD-ĐT có toàn quyền thực thi quyền quản lý trên địa bàn tỉnh, thành phố đó. Như vậy, có thể hiểu khi nhận quyền thì chủ thể nhận quyền được giao/trao phải chịu trách nhiệm về các quyết định thuộc thẩm quyền của mình.

Theo chúng tôi, những vấn đề nêu trên cần được thể chế hóa thành các điều khoản trong Luật GDNN, quyền và phân quyền này liên quan đến các quy định về QLNN, quy định về hoạt động đào tạo của cơ sở GDNN, quy định về quyền và phân quyền đối với hiệu trưởng nhà trường… Quyền và phân quyền, trao quyền luôn gắn rất chặt với cơ chế tự chủ và chế độ trách nhiệm giải trình. Những điều này cũng cần được làm rõ trong Luật GDNN sửa đổi.

Quyền và phân quyền, trao quyền cần được làm rõ trong Luật GDNN sửa đổi

Theo tự điển tiếng Việt, tự chủ là “tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình không bị ai chi phối”. Như vậy, quyền tự chủ của một cơ sở GDNN có thể hiểu là quyền được tự tổ chức, quản lý các hoạt động của cơ sở một cách chủ động, tích cực, sáng tạo nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh của đơn vị mình. Chủ thể thực hiện quyền tự chủ là lãnh đạo, những người quản lý của cơ sở GDNN.

Trong khoa học quản lý, tự chủ thường gắn liền với quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Theo đó, tự chịu trách nhiệm là nghĩa vụ đương nhiên của chủ thể quản lý, bởi vì bất kỳ cơ quan, tổ chức nào với tư cách là một thực thể pháp lý, nó đương nhiên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về mọi quyết định và hành động của mình. Cụm từ “tự chịu trách nhiệm” hàm nghĩa “tự mình chịu trách nhiệm về những quyết định và hành động của chính mình”; “chịu trách nhiệm” ở đây có nghĩa “tự mình tổ chức thực hiện và gánh chịu hậu quả”.

Tự chủ cơ sở GDNN là quyền của nhà trường trong việc quyết định những công việc của chính mình; thể hiện khả năng chủ động trong xây dựng và thực hiện chiến lược của nhà trường trên cơ sở những quy định  về phân cấp, phân quyền và giao quyền quản lý ở cấp vĩ mô.

Quyền tự chủ của cơ sở GDNN được hiểu theo hai cấp độ: Cấp độ vĩ mô là quyền tự chủ của cơ sở GDNN đối với quyền điều hành, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN Cấp độ vi mô là quyền tự chủ trong nội bộ của cơ sở GDNN. Do đó, những nội dung này cần được quy định rất rõ trong Luật GDNN (sửa đổi) với vấn đề QLNN (phân quyền và giao quyền) và các nội dung về quản trị nhà trường. Quyền tự chủ của các cơ sở GDNN thường có bốn nội dung cơ bản là:

          -Tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự;

          – Tự chủ về thực hiện đào tạo (tuyển sinh, chương trình, giáo trình, quy trình đào tạo);

          –  Tự chủ về tài chính;

          – Tự chủ về phối hợp, hợp tác trong đào tạo.

Những nội dung này của tự chủ cấn được quy định rõ, cụ thể trong Chương Cơ sở GDNN, đặc biệt cần có quy định rõ về vai trò của Hội đồng trường, bởi khi thực hiện tự chủ thì Hội đồng trường có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng phát triển nhà trường và các hoạt động quản trị, hoạt động đào tạo của cơ sở GDNN.

Gắn với quyền, như nêu trên, là trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN. Cùng với việc phân cấp, phân quyền và giao quyền thì trách nhiệm giải trinh là vấn đề không thể thiếu được trong hoạt động của cơ sở GDNN. Theo Từ điển Oxford American Dictionary and Thesaurus, “trách nhiệm giải trình” (accountability) có thể được hiểu như một từ đồng nghĩa với việc “chịu trách nhiệm, có thể trả lời được, có thể giải thích, hiểu được, nắm được và có thể diễn giải được”.

Theo đó,Trách nhiệm giải trình là sự thừa nhận về trách nhiệm đối với mọi hành động, mọi quyết định hay chính sách mà chủ  thể quản lý đưa ra trong việc lãnh đạo, quản lý, và thực hiện công việc; gắn với nghĩa vụ báo cáo, giải thích, biện minh cho mọi hậu quả của những việc đã làm. Thiết chế quyền tự chủ giáo dục của nhiều nước trên thế giới theo hướng quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình.

Đặc biệt cần có quy định rõ về vai trò của Hội đồng trường, bởi khi thực hiện tự chủ Hội đồng trường có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng phát triển nhà trường và các hoạt động quản trị, hoạt động đào tạo của cơ sở GDNN.

Gắn với quyền, như nêu trên là trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN. Cùng với việc phân cấp, phân quyền và giao quyền thì trách nhiệm giải trinh là vấn đề không thể thiếu được trong hoạt động của cơ sở GDNN. 

Ở Việt Nam thiết chế giáo dục đang theo hướng quyền tự chủ đi liền với tự chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, trách nhiệm giải trình và tự chịu trách nhiệm có sự khác biệt. Tự chịu trách nhiệm là nghĩa vụ đương nhiên của bất kỳ tổ chức nào, một thực thể pháp lý nào. Cơ sở GDNN là một thực thể pháp lý, đương nhiên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về mọi quyết định và hành động của mình.

Còn trách nhiệm giải trình là việc cơ sở GDNN có trách nhiệm báo cáo, minh bạch thông tin đối với người học, xã hội, cơ quan quản lý có thẩm quyền, chủ sở hữu và các bên liên quan về việc tuân thủ quy định của pháp luật và thực hiện đúng quy định, cam kết của cơ sở GDNN. Điều này phải được quy định rõ trong Luật GDNN sửa đổi.  Chỉ khi đó, tính minh bạch, tính lượng hóa các chỉ tiêu trong hoạt động của cơ sở GDNN mới được thực thi hiệu quả.