15/12/2025 16:39:14

Phỏng vấn PGS.TS Vũ Thị Tú Anh, Phó Cục trưởng Cục Giáo dục Nghề nghiệp và Giáo dục Thường xuyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Trao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình, đổi mới GDNN là xu hướng tất yếu

Đây là một trong những vấn đề trọng tâm của Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) khi triển khai thực hiện Kết luận số 91- KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 71- NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng GDNN, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động trong nước và hội nhập với thị trường lao động quốc tế, thích ứng với xu hướng toàn cầu hóa và Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0).

Tự chủ, đổi mới – Xu hướng tất yếu

Xu hướng tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, nhằm nâng cao chất lượng GDNN đã được thúc đẩy mạnh mẽ trong những năm gần đây. Đặc biệt, triển khai Nghị quyết số 71- NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó có GDNN. Bà có thể cho biết quan điểm, chỉ đạo của Cục GDNN và GDTX về việc trao quyền tự chủ đối với các cơ sở GDNN?

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy quyền tự chủ trong giáo dục nói chung và GDNN nói riêng. Hệ thống pháp luật đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN công lập.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngày càng trở nên cấp thiết. GDNN được xác định là một trong những trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, đóng vai trò cung ứng lực lượng lao động có kỹ năng nghề, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế.

Trao quyền tự chủ trong các cơ sở GDNN là một trong những xu hướng tất yếu nhằm đổi mới nhằm đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả đào tạo. Cơ chế tự chủ cho phép các cơ sở đào tạo được chủ động trong tổ chức bộ máy, nhân sự, chương trình đào tạo, tài chính và tài sản. Đồng thời, phải thực hiện trách nhiệm giải trình với Nhà nước và xã hội. Đây cũng là điều kiện quan trọng để các cơ sở GDNN chuyển từ mô hình hoạt động hành chính – bao cấp sang mô hình quản trị hiện đại, linh hoạt và hướng đến chất lượng.

Nói như vậy, tự chủ trong GDNN được nhìn nhận vừa là công cụ quản lý, vừa là mục tiêu phát triển nhằm tăng cường năng lực nội tại của các cơ sở GDNN trong việc thích ứng với nhu cầu thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng, thưa bà?

Đúng như vậy. Tự chủ trong GDNN mang tính đặc thù, đó là hướng đến tính thực hành, kỹ năng và sự gắn kết chặt chẽ với thị trường lao động. Do đó, tự chủ trong GDNN cần được tiếp cận trên cơ sở phát huy tối đa vai trò của cơ sở đào tạo trong mối quan hệ ba bên: Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp. Đây cũng chính là xu hướng đào tạo mở, linh hoạt, nhằm đáp ứng kịp thời các vị trí việc làm của thị trường lao động.

Như bà đã đề cập, cơ chế tự chủ cho phép các cơ sở đào tạo được chủ động trong tổ chức bộ máy, nhân sự, chương trình đào tạo, tài chính và tài sản. Bà có thể cho biết nội dung cơ bản của cơ chế tự chủ này?

Thứ nhất, tự chủ về tổ chức và nhân sự: Các cơ sở GDNN được quyền quyết định cơ cấu tổ chức, tuyển dụng, bổ nhiệm và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật. Việc thực hiện tự chủ trong lĩnh vực này giúp nhà trường xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển chuyên môn và nhu cầu thực tiễn.

Thứ hai, tự chủ chuyên môn, học thuật: Bao gồm quyền tự xây dựng chương trình đào tạo, tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức giảng dạy và đánh giá kết quả học tập, mở ngành, nghề/ đăng ký ngành nghề đào tạo; tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, hợp tác, liên doanh, liên kết, bảo đảm chất lượng, ban hành quy chế tổ chức, hoạt động của trường.

Thứ ba, tự chủ tài chính và tài sản: Cơ sở GDNN được giao quyền chủ động trong việc sử dụng ngân sách được cấp, quyết định các khoản thu, chi ngoài ngân sách; được khai thác, sử dụng và phát triển tài sản được giao. Việc thực hi ện tự chủ tài chính góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực và giảm gánh năng ngân sách nhà nước. Có thể khẳng định, tự chủ trong GDNN là điều kiện tiên quyết để cơ sở đào tạo nâng cao hiệu quả, sử dụng nguồn lực, huy động xã hội hóa và giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.

Tự chủ không có nghĩa là buông lỏng quản lý

Tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, vậy theo bà, mối quan hệ giữa tự chủ và trách nhiệm giải trình như thế nào?

Khi các cơ sở GDNN được trao quyền tự quyết nhiều hơn thì cũng phải có trách nhiệm công khai, minh bạch thông tin và giải trình kết quả đào tạo, báo cáo tài chính, hiệu quả sử dụng nguồn lực, cũng như mức độ hài lòng của người học và doanh nghiệp.

Nhiều quốc gia đã thiết lập cơ chế kiểm định độc lập và đánh giá công khai như một phần không thể tách rời tự chủ. OCECD (2018) nhấn mạnh: “ Tự chủ mà không có giám sát và đánh giá chất lượng là con đường dẫn tới sự mất kiểm soát và suy giảm chất lượng”.

Mối quan hệ này không phải là hai thái cực đối lập mà là hai yếu tố trong tương hỗ, góp phần xây dựng một nền GDNN hiện đại, dân chủ và hiệu quả. Trong điều kiện Việt Nam, cần đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng cơ chế giám sát độc lập, nâng cao năng lực quản trị và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá két quả hoạt động của các cơ sở GDNN trong điều kiện tự chủ.

Con đường tự chủ giúp các cơ sở GDNN có hướng đi mạnh mẽ hơn trong đổi mới các phương thức đào tạo và gặt hái được những thành công. Tuy nhiên, còn gặp không ít khó khăn. Bà có thể chia sẻ những khó khăn chung trong việc thực hiện tự chủ?

Hiện nay, các cơ sở GDNN đang phải đối diện với nhiều thách thức về quy mô tuyển sinh thấp, dẫn đến nguồn nthu từ học phí thấp trong khi chi phí đầu tư cho cơ sở vật chất, thiết bị, nguyên, nhiên liệu để dạy thực hành cao. Mức độ tự chủ tài chính càng cao, các trường gặp phải khó khăn do kinh phí cấp chi thường xuyên giảm dần, trong khi việc đặt hàng, giao nhiệm vụ chưa thực hiện được do thiếu các điều kiện triển khai định mức kinh tế- kỹ thuật, giá dịch vụ cao.

Về cơ chế, chính sách, các cơ sở GDNN chưa được giao quyền tự chủ đồng bộ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, nhân sự và tài chính. Các trường đều thuộc hoặc trực thuộc một cơ quan chủ quản là cơ quan quyết định việc thành lập, chia tách, sáp nhập, giải thể các trường, các đơn vị thuộc trường, quyết định biên chế, xếp bậc lương cao cho cán bộ, giảng viên, viên chức toàn trường, bổ nhiệm chủ tịch hội đồng trường và hiệu trưởng; mức học phí thu theo khung quy định, chưa tương xứng với chi phí đào tạo.

Ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên cho cơ sở GDNN trên cơ sở nhiệm vụ được Nhà nước giao, số lượng người làm việc và định mức phân bổ dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa gắn kết việc giao kinh phí cho đơn vị với số lượng, chất lượng dịch vụ GDNN theo kết quả đầu ra; thiếu cơ chế khuyến khích các đơn vị tăng nguồn thu sự nghiệp thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

Cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo còn chưa linh hoạt. Việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch đặt hàng và phân bổ kinh phí chưa thực sự dựa trên kết quả đầu ra và nhu cầu thị trường, dẫn đến sự thụ động trong tổ chức đào tạo và sử dụng ngân sách.

Về tổ chức thực hiện, các cơ sở GDNN chưa chủ động khai thác các thế mạnh về cơ sở vật chất, giáo viên của trường để tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ gắn với đào tạo nhằm tăng cường nguồn thu, thực hiện tiết kiệm chi tiêu, tận dụng tối đa các nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo, tăng thu nhập cho cán bộ, giáo viên của trường.

Một số cơ sở GDNN năng lực quản trị nội bộ còn hạn chế, chưa xây dựng được bộ máy quản trị phù hợp với mô hình tự chủ, còn lúng túng trong xây dựng kế hoạch tài chính, tổ chức bộ máy, phân cấp trách nhiệm và kiểm soát nội bộ.

Cần có giải pháp đồng bộ

Thúc đẩy tính tự chủ trong GDNN, theo bà cần có những giải pháp gì?

Cần có những giải pháp đồng bộ cho toàn hệ thống GDNN như: Hoàn thiện thể chế, khung pháp lý về tự chủ và toàn diện; Đảm bảo cân bằng giữa ba trụ cột (tài chính, nhân sự, chuyên môn). Trong giải pháp trụ cột này, Nhà nước tiếp tục thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, bảo đảm nguồn lực ngân sách cơ bản cho GDNN. Đồng thời, mở rộng quyền khai thác dịch vụ, hợp tác công – tư và huy động xã hội hóa; trao quyền cho cơ sở trong tuyển dụng, trả lương, bổ nhiệm cán bộ gắn với hiệu quả và cơ chế giải trình minh bạch; cho phép các cơ sở GDNN chủ động thiết kế chương trình đào tạo mở, linh hoạt, bám sát nhu cầu thị trường lao động, công khai minh bạch kết quả đào tạo và hiệu quả sử dụng nguồn lực.

Cùng đó là xây dựng hệ thống giám sát và cơ chế giải trình, nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GDNN; Tăng cường hợp tác công- tư, gắn kết với doanh nghiệp.

Để tự chủ trở thành động lực thúc đẩy phát triển, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng đồng bộ. Đặc biệt, cần chú trọng tạo điều kiện cho các cơ sở GDNN phát huy năng lực nội tại, nâng cao năng lực quản trị và trách nhiệm giải trình, từ đó chủ động thích ứng với yêu cầu thị trường lao động và bối cảnh chuyển đổi số.

Tự chủ không chỉ là cơ chế vận hành, mà còn là động lực phát triển lâu dài, giúp các cơ sở GDNN nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và vị thế trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Thu Thủy (Thực hiện)

Comments are closed.