Cho đến thời điểm này, cấp độ đào tạo lĩnh vực du lịch đã có từ trình độ sơ cấp đến trình độ tiến sĩ, đây cũng là căn cứ cơ bản để các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch có định hướng và kế hoạch phát triển các mã ngành đào tạo, tổ chức đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu phát triển ngành trong tình hình mới.

Thời gian qua, Du lịch được Đảng và Nhà nước quan tâm phát triển và hể hiện qua các chủ trương, chính sách đã được ban hành. Nghị quyết số 45/CP ngày 22 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về đổi mới phát triển du lịch, Chỉ thị số 46/CT-BCT ngày 14/10/1994 và Thông báo số 179/TB-TW ngày 11/11/1998 của Bộ Chính trị về thực hiện Chỉ thị số 46/CT-BCT về phát triển du lịch trong tình hình mới.
Pháp lệnh Du lịch năm 1999, Luật Du lịch 2005, Luật Du lịch 2017 cùng hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành, đã tạo nền tảng, tạo đà cho phát triển ngành du lịch trong thời gian qua.
Để đáp ứng đới với đòi hỏi của ngành, của thị trường lao động, hoạt động đào tạo và phát triển nhân lực du lịch thời gian qua cũng được quan tâm triển khai thực hiện. Hệ thống các quy định pháp luật liên quan như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp…và các văn bản hướng dẫn thi hành, các quy định của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến giáo dục và đào tạo, trong đó có nhân lực du lịch cũng được ban hành và tạo nền tảng pháp lý cho các hoạt động giáo dục và đào tạo nhân lực du lịch.
1. Đặc điểm về nhân lực du lịch
Nhân lực trong ngành Du lịch được chia thành 3 nhóm với những vai trò, đặc điểm khác nhau:
Thứ nhất: Khối nhân lực quản lý nhà nước về du lịch, nhóm này có vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia và từng địa phương, tham mưu hoạch định chính sách phát triển du lịch; đại diện cho Nhà nước để hướng dẫn để các doanh nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu quả, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh.
Thứ hai: Khối nhân lực sự nghiệp là bộ phận có trình độ học vấn cao, có kiến thức chuyên sâu về ngành Du lịch, có chức năng đào tạo, nghiên cứu khoa học về du lịch và có vai trò to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch, tác động lớn đến chất lượng và số lượng của nguồn nhân lực ngành Du lịch hiện tại và tương lai.
Thứ ba: Khối nhân lực kinh doanh là nhóm có chức năng tổ chức thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch như các nhà hàng, khách sạn, công ty du lịch, công ty vận chuyển khách du lịch… Trong đó, nhóm nhân lực này chiếm đa số trong hoạt động của ngành Du lịch và được chia thành 4 nhóm cơ bản gồm: Nhóm lao động chức năng quản lý chung, Nhóm lao động chức năng quản lý theo các nghiệp vụ kinh tế; Nhóm lao động chức năng đảm bảo điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp du lịch; Nhóm lao động trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách (Tham khảo Bảng 1).
Bảng 1. Cơ cấu nguồn nhân lực du lịch
TT | Phân loại nguồn nhân lực theo lĩnh vực |
1 | Đội ngũ quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch |
2 | Lao động quản lý các doanh nghiệp (cấp trưởng, phó bộ phận trở lên) |
3 |
Lao động nghiệp vụ |
– Lễ tân | |
– Phục vụ buồng | |
– Phục vụ bàn, bar | |
– Nhân viên nấu ăn | |
– Hướng dẫn viên | |
– Nhân viên lữ hành, đại lý du lịch | |
– Nhân viên khác | |
4 |
Lao động sự nghiệp |
– Các nghiên cứu viên hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu liên quan | |
– Các giáo viên, giảng viên các cơ sở đào tạo du lịch |
- Đặc điểm về hệ thống đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch hiện nay
Hệ thống các cơ sở đào tạo
Hiện nay, cả nước có hơn 190 cơ sở đào tạo du lịch và tham gia giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch ở trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và đào tạo ngắn hạn, gồm: 65 trường đại học có các khoa du lịch; 55 trường cao đẳng (có 10 trường cao đẳng chuyên đào tạo du lịch trong đó có 8 trường trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); 71 trường trung cấp.
Năng lực của các cơ sở đào tạo từng bước được nâng cao. Cụ thể, cơ sở vật chất kỹ thuật được nâng cấp và tăng cường từng bước đổi mới, hiện đại hóa. Một số trường đại học, cao đẳng đã đầu tư xây dựng cơ sở thực hành như xưởng trường, khách sạn trường… tương đối hiện đại. Đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo du lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa.
- Hệ thống các ngành/nghề đào tạo lĩnh vực du lịch
Thời gian qua, với sự thay đổi trong quy định về đào tạo, có những đổi mới trong quy định mã ngành đào tạo. Cụ thể: Tháng 3 năm 2017, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 04/2017/TT-BLĐTBXH quy định danh mục ngành/nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, cao đẳng với hơn 40 ngành/nghề; Tháng 10 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các Thông tư số 24/2017/TT-BGDĐT quy định danh mục ngành/nghề đào tạo cấp IV trình độ đại học và Thông tư số 25/2017/TT-BGDĐT quy định danh mục ngành đào tạo cấp IV trình độ thạc sĩ và tiến sĩ, với 4 ngành trình độ đại học, 2 ngành trình độ thạc sĩ và 1 ngành trình độ tiến sĩ. Như vậy, hiện nay cơ cấu ngành nghề giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch của cả nước từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, với khoảng 50 ngành/nghề du lịch và liên quan đến du lịch. Bên cạnh các trình độ từ trung cấp đến tiến sĩ như các quy định mới, nhiều chương trình đào tạo sơ cấp ngắn hạn trong lĩnh vực du lịch cũng được các cơ sở đào tạo trên toàn quốc triển khai theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

Như vậy cho đến thời điểm này, cấp độ đào tạo lĩnh vực du lịch đã có từ trình độ sơ cấp đến trình độ tiến sĩ, đây cũng là căn cứ cơ bản để các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch có định hướng và kế hoạch phát triển các mã ngành đào tạo, tổ chức đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu phát triển ngành trong tình hình mới.
3. Nhu cầu đối với lao động du lịch
Theo Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2011 xác định nhu cầu nhân lực du lịch đến năm 2020 cụ thể như sau:
- Về số lượng lao động
Đến năm 2020, lao động du lịch sẽ cần 870.000 lao động trực tiếp, giai đoạn 2021-2025 nhân lực du lịch tăng bình quân mỗi năm khoảng 6,2%, lao động du lịch gián tiếp theo nhu cầu xã hội sẽ cần khoảng 2,2-2,5 triệu người.
- Về chất lượng lao động
Được trang bị đúng, đủ kiến thức, kỹ năng (quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, chuyên môn, kỹ năng giao tiếp); có tinh thần thái độ phục vụ chu đáo tận tuỵ, sẵn sàng phục vụ khách; và có năng lực ngoại ngữ, tin học đảm bảo yêu cầu của từng nghiệp vụ cụ thể.
Cụ thể:
- Đảm bảo qua đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ lao động du lịch được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm;
- Tinh thần thái độ phục vụ chu đáo, đúng mực;
- Có năng lực ngoại ngữ, tin học đảm bảo yêu cầu của từng nghiệp vụ cụ thể;
- Đảm bảo lực lượng lao động cân đối giữa các ngành nghề, vùng miền trên toàn quốc và các khu vực.
Theo đó, chất lượng đào tạo phải đảm bảo học sinh, sinh viên tốt nghiệp các cơ sở đào tạo du lịch và người lao động đã qua các đào tạo hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác tìm được việc làm trong ngành Du lịch đúng với chuyên ngành đào tạo, được cơ sở sử dụng lao động thừa nhận và cuối cùng là phải đáp ứng được yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, mức độ tự chủ, chịu trách nhiệm của từng vị trí công việc.
- Về cơ cấu lao động
Đảm bảo hợp lý giữa các trình độ đào tạo (đại học, cao đẳng, trung cấp và sơ cấp nghề); giữa các loại công việc (quản lý và lao động trực tiếp); giữa các vùng, miền, địa phương tương ứng với tốc độ phát triển du lịch; và giữa các ngành nghề (khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các dịch vụ khác).
Như vậy, cơ cấu lao động phải đảm bảo hợp lý giữa các trình độ đào tạo: đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp nghề; giữa các loại công việc: quản lý, giám sát và lao động nghiệp vụ; giữa các ngành nghề, lĩnh vực: khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các dịch vụ khác; giữa các nghề: lễ tân, phục vụ buồng, nấu ăn, hướng dẫn viên, điều hành tour, nhân viên đại lý…; giữa các vùng miền trong toàn quốc.
Về cơ cấu lao động theo lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, số lao động du lịch chủ yếu làm việc trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, cơ cấu dự báo năm 2020 như sau: Khách sạn, nhà hàng ăn uống chiếm 50,4%; lữ hành, vận chuyển khách chiếm 15,1% và dịch vụ giải trí, dịch vụ khác chiếm 34,5%.
- Về chuyên môn nghiệp vụ
Trong thời gian tới, bên cạnh đào tạo tiếng Anh vẫn có nhu cầu lớn, nhu cầu đào tạo các ngoại ngữ khác cũng cao. Các kỹ năng nghiệp vụ hoặc các năng lực chuyên sâu như kiến thức quản lý, lãnh đạo; hoạch định chính sách; quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch; phát triển và quản trị thương hiệu; khai thác phát triển sản phẩm du lịch có nhu cầu đào tạo rất lớn. Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ phải đảm bảo thực thi được các công việc ở vị trí làm việc và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
đ) Về chuẩn hóa chức danh và nội dung đào tạo nhân lực du lịch
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu, toàn diện đặt ra yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch phải chuẩn hóa (chuẩn hóa chức danh lao động; cơ sở vật chất trường lớp; giảng viên, giáo viên; và chương trình).
Trước hết các chuyên ngành đào tạo (cả về kiến thức, kỹ năng, phong cách) của từng chức danh nghề nghiệp du lịch phải được chuẩn hóa, thống nhất, thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật và áp dụng trong phạm vi cả nước. Đồng thời cần thừa nhận và áp dụng các tiêu chuẩn nghề du lịch khu vực ASEAN và tiếp thu chọn lọc chuẩn của các khu vực khác để có thể áp dụng phù hợp với Việt Nam. Sự thừa nhận lẫn nhau (về chương trình, nội dung kiến thức, kỹ năng chuyên ngành đào tạo và văn bằng, chứng chỉ ứng với các trình độ đào tạo) là điều kiện để thúc đẩy quá trình tham gia thị trường lao động du lịch trong khu vực và thế giới. Hướng tới lao động du lịch được đào tạo của Việt Nam có thể di chuyển thuận lợi, đủ năng lực tham gia thực hiện các công đoạn trong phân công lao động quốc tế trong du lịch.
- Yêu cầu đối với ngành nghề lao động mới
Quan tâm, nghiên cứu, phát triển chương trình đào tạo các ngành nghề hiện nay và dự báo trong tương lai sẽ cần nhiều nhân lực nhưng các cở sở đào tạo du lịch trên cả nước chưa đào tạo, hoặc đào tạo chất lượng chưa cao, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển ngành và yêu cầu của thị trường lao động.
4. Một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng GDNN lĩnh vực du lịch
Thứ nhất: Triển khai hiệu quả các quy định, hướng dẫn của Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Du lịch, Khung trình độ quốc gia Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác
Luật Giáo dục nghề nghiệp và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Du lịch và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật việc làm và các văn bản hướng dẫn thi hành; Khung trình độ quốc gia Việt Nam và và hệ thống các văn bản pháp lý khác đã tạo nền tảng pháp lý đầy đủ và phù hợp, điều này đòi hỏi các chủ thể liên quan cần thực hiện tốt, đúng và đủ các quy định liên quan. Đặc biệt, cần triển khai mạnh mẽ hơn các quy định trong Khung trình độ quốc gia Việt nam đối với việc xây dựng và thống nhất thực thiện chuẩn đầu ra các bậc trình độ đối với các lĩnh vực làm nền tảng cho thống nhất chuyên môn nghiệp vụ đối với hoạt động đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực sau đào tạo lĩnh vực du lịch.
Thứ hai: Tăng cường năng lực đối với cơ sở đào tạo du lịch, tiếp tục chuẩn hóa chuẩn đầu ra, cơ sở vật chất, chương trình học liệu và chuẩn đội ngũ nhà giáo
Nhiệm vụ trước mắt cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch, đặc biệt các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đào tạo du lịch đảm bảo liên kết chặt chẽ và cân đối giữa ngành nghề đào tạo, phân bố vùng, miền hợp lý phù hợp với Chiến lược và Quy hoạch phát triển du lịch quốc gia.
Đầu tư nâng cao năng lực về mọi mặt cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đào tạo du lịch, nghiên cứu, bổ sung danh sách các cơ sở đào tạo du lịch bậc cao đẳng vào danh mục các cơ sở đào tạo chất lượng cao được tập trung đầu tư.

Tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hóa các loại hình trường, lớp, trung tâm và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng du lịch. Khuyến khích triển khai thành lập các cơ sở đào tạo du lịch ở các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo ngoài công lập và các cơ sở có vốn đầu tư của nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ ba: Đẩy mạnh hoàn thiện các Bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia lĩnh vực du lịch và đề xuất với ASEAN công nhận để thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch trong ASEAN (MRA-TP).
Trong xu hướng và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế đặt ra yêu cầu đối với đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch trong nước phải dần được chuẩn hóa. Trước hết các chuyên ngành đào tạo ứng với mục tiêu là đào tạo các chức danh nghề nghiệp, sau đó là yêu cầu chi tiết về kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đào tạo đối với từng vị trí chức danh nghề nghiệp du lịch phải được chuẩn hóa, thống nhất và được thừa nhận trong phạm vi cả nước.
Để đảm bảo nhân lực du lịch được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần đẩy mạnh xây dựng và ban hành được hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia về lao động ngành Du lịch mang tính quốc tế làm cơ sở để các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn và các doanh nghiệp tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ lao động thống nhất toàn quốc trong lĩnh vực du lịch và đảm bảo hội nhập quốc tế thành công.
Trước mắt, tiếp tục hoàn thiện và ban hành các bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia trong lĩnh vực du lịch theo hướng tiếp cận năng lực và hài hòa với tiêu chuẩn khu vực. Xúc tiến việc đề nghị với ASEAN công nhận các Bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia lĩnh vực du lịch đã được xây dựng, ban hành để triển khai thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực du lịch khu vực ASEAN (MRA-TP). Yêu cầu đặt ra đối với các cơ sở đào tạo du lịch Việt Nam trong giai đoạn tới hội nhập toàn diện trong khu vực, đòi hỏi quá trình đào tạo và kết quả đào tạo phải được thừa nhận trong khu vực. Sự công nhận và thừa nhận lẫn nhau là điều kiện để trao đổi và hợp tác, hội nhập quốc tế về phát triển nguồn nhân lực du lịch, tạo điều kiện cho người lao động được di chuyển thuận lợi và cơ sở sử dụng lao động có điều kiện tuyển dụng được lao động chất lượng cao, tạo điều kiện cho hợp tác, hội nhập du lịch trong khu vực.
Thực hiện Tiêu chuẩn nghề du lịch ASEAN, cơ chế thừa nhận lẫn nhau và công nhận kỹ năng các nghề du lịch và các nghề liên quan nhằm đạt tới những tiêu chuẩn chung trong khu vực và quốc tế, tạo tiền đề phát huy tính tích cực và năng động của thị trường lao động không biên giới, không rào cản trong quá trình hội nhập du lịch khu vực, thúc đẩy hợp tác đào tạo và sử dụng lao động du lịch. Từ đó, nghiên cứu và hài hòa hóa Chương trình đào tạo du lịch chung ASEAN trong điều kiện Việt Nam.
Thứ tư: Xây dựng và ban hành cơ chế cụ thể nhằm tăng cường gắn kết doanh nghiệp với cơ sở đào tạo
Để đảm bảo lợi ích tối đa của đào tạo nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội, vai trò của các doanh nghiệp du lịch là rất quan trọng, các doanh nghiệp du lịch cần tham gia trong quá trình quyết định và thực hiện ở tất cả các giai đoạn của hệ thống đào tạo du lịch: xây dựng các chính sách về đào tạo; xây dựng các tiêu chuẩn nghề; tổ chức đào tạo du lịch; và quy trình đánh giá và cấp chứng chỉ.
Đại diện doanh nghiệp cần được mời tham gia ý kiến vào xây dựng chiến lược quốc gia về đào tạo nhân lực du lịch hoặc các văn bản quy phạm quy định về đào tạo du lịch; cung cấp thông tin về năng lực cần thiết, tham gia xây dựng tiêu chuẩn nghề trong lĩnh vực du lịch; các cơ sở này có thể cung cấp các khóa đào tạo, xác định các yêu cầu kiểm tra, tham gia đánh giá và cấp chứng chỉ nghề cho các học viên du lịch đã tốt nghiệp, xác định tiêu chuẩn đối với trình độ chuyên môn của giáo viên dạy du lịch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hành cho đội ngũ giảng viên giáo viên du lịch.
Các hình thức khác để thực hiện sự tham gia của doanh nghiệp du lịch trong đào tạo tại các trường du lịch là mời lao động lành nghề làm giáo viên
thực hành hoặc các giáo viên của trường thực hành tại doanh nghiệp. Ngoài ra còn các hình thức đào tạo theo đơn đặt hàng, đào tạo theo địa chỉ.
Ngược lại để khuyến khích doanh nghiệp tham gia tích cực vào quá trình đào tạo nhân lực du lịch, các bộ ngành liên quan cần có những cơ chế chính sách ưu tiên, ưu đãi về thuế cũng như lựa chọn và sử dụng nhân lực mà doanh nghiệp tham gia đào tạo.
Tổ chức xây dựng và đề xuất giải thưởng đối với các doanh nghiệp du lịch có nhiều đóng góp cho phát triển nguồn nhân lực du lịch hàng năm và định kỳ 5 năm.
Kết luận
Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, ngành Du lịch đang được quan tâm tập trung phát triển đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nhân lực du lịch nói chung, giáo dục nghề nghiệp nhân lực du lịch nói riêng cần được quan tâm. Việc xác định mục tiêu trọng tâm, rà soát các nội dung quan trọng, những vấn đề cần tháo gỡ trong chính sách, cơ chế và các quy định pháp luật có liên quan nhằm điều chỉnh, đổi mới với mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hiện nay./.