25/04/2025 12:08:28

Một số vấn đề cần quan tâm khi sửa Luật Giáo dục nghề nghiệp

PGS.TS. Mạc Văn Tiến

Phó Chủ tịch Hiệp hội GDNN và Nghề CTXH Việt Nam

Luật Giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam (Luật GDNN) được thông qua năm 2014 và có hiệu lực từ tháng 7 năm 2015. Luật đã thực hiện được  10 năm và hiện đang được các cơ quan chức năng dự kiến sửa dổi trong năm 2025. Trải qua 10 năm thực hiện Luật GDNN từ giác độ khoa học và thực tiễn, có thể thấy một số vấn đề sau:

1. Luật GDNN (2014) đã thể chế hóa được chủ trương của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào  tạo (GDĐT). Trước những bất cập của hệ thống GDĐT trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ngày 4 tháng 11 năm 2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã thông qua Nghi quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và HNQT.

Để thể chế hóa các nội dung của Nghi quyết 29-NQ-TW trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, ngày 27 tháng 11 năm 2014 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật GDNN và có hiệu lực từ 1/7/2014. Luật GDNN được thông qua đã tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của GDNN trong bối cảnh mới.

Luật đã quy định về các trình độ đào tạo, trong đó đã hợp nhất trung cấp và trung cấp nghề, cao đẳng và cao đẳng nghề. Luật cũng đã có những quy định về quyền và trách nhiệm trong hoạt động GDNN.

Theo đó, doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề đã có những căn cứ pháp lý để tăng cường các  hoạt động hợp tác  trong việc xây dựng chương trình đào tạo, hợp tác trong việc tổ chức đào tạo, thực tập của HSSV tại doanh nghiệp…

Qua đó chất lượng đào tạo đã từng bước được nâng lên. Một số ngành, nghề đào tạo đã tiếp cận được trình độ của khu vực và quốc tế. Tỷ lệ người học sau đào tạo được doanh nghiệp tiếp nhận vào làm việc ngày cảng tăng lên. Tuy nhiên, qua 10 năm thực hiện luật, đã xuất hiện những tồn tại, bất cập. Những tồn tại, bất cập đã được đề cập ở nhiều khía cạnh, nhiều nội dung khác nhau, nhưng nổi lên một số vấn đề, đó là:

(1) Chưa đáp ứng được mục tiêu phân luồng. Tỷ lệ học sinh sau THCS và THPT vào học nghề chưa cao, nhất là tỷ lệ học sinh sau THCS, chưa đáp ứng được mục tiêu đã được nêu tại Chỉ thị số 10 của Bộ chính trị.

(2) Tính linh hoạt và liên thông trong hệ thống GDNN và giữa GDNN và các bậc học khác của hệ thống GDQD chưa cao: Chưa khuyến khích người học vào học của hệ thống GDNN. Chương trình đào tạo, mặc dù Luật đã quy định do các cơ sở GDNN tự xây dựng và ban hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chương trình đào tạo khá cứng nhắc, chưa thích ứng được với những thay đổi của doanh nghiệp và thị trường lao động.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa chủ trì buổi làm việc khảo sát công tác đào tạo nhân lực chất lượng cao tại Trường CĐ Việt - Hàn Bắc Giang
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa chủ trì buổi làm việc khảo sát công tác đào tạo nhân lực chất lượng cao tại Trường CĐ Việt – Hàn Bắc Giang

(3) Chất lượng đào tạo, tuy có tững bước được nâng lên, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Người học trong hệ thống GDNN chưa được các  doanh nghiệp đánh giá cao, nhất là kỹ năng nghề nghiệp và thái độ, trách nhiệm với nghề.

2. Yêu cầu thay đổi trước bối cảnh mới

Ngày nay, khoa học công nghệ (KHCN) phát triển vô cùng nhanh chóng. Những tác động của KHCN, nhất là tác động của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 (CMCN 4.0) đến các hoạt động trong đời sống xã hội, đến hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng rõ nét.

CMCN lần thứ tư đã thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, đã xuất hiện những mô hình sản xuất mới với những mô hình quản trị mới với sự ứng dụng của công nghệ. CMCN cũng làm triệt tiêu nhiều ngành nghề truyền thống.

Theo dự báo của Tổ chức lao động quốc tế, trong vòng 10 năm tới, trên 80 ngành nghề hiện hành trên toàn thế giới sẽ bị mất đi (do thị trường lao động, thị trường sản xuất không còn nhu cầu); đồng thời xuất hiện những ngành nghề mới liên quan đến hệ thống tự động, đến robot.

Hơn nữa, trước những biến động ngày càng phức tạp của khí hậu toàn cầu, các quốc gia trên thế giới đã và đang xây dựng chiến lược thích ứng với sự biến đổi của khí hậu, trước hết là giảm phát thải vào môi trường.

Theo đó, nhiều ngành nghề mới xuất hiện gắn với năng lượng tái tạo, những ngành nghề xanh. Từ những bối cảnh đó, người lao động phải được trang bị những kỹ năng mới đề có thể làm chủ được những thiết bị công nghệ mới, có năng lực “cạnh tranh” trực tiếp với các hệ thống Robot, có những kỹ năng xanh, kỹ năng số. Điều này tác động tới hệ thống GDNN, buộc hệ thống này phải đổi mới để thích ứng và trước hết và trên hết, phải đổi mới trong các nội dung của Luật GDNN.

Nữ sinh viên theo học cao đẳng nghề Cơ điện tử
Nữ sinh viên theo học cao đẳng nghề Cơ điện tử

Nhiều ngành nghề mới xuất hiện gắn với  năng lượng tái tạo, những ngành nghề xanh. Từ những bối cảnh đó, người lao động phải được trang bị những kỹ năng mới đề có thể làm chủ được những thiết bị công nghệ mới, có năng lực “cạnh tranh” trực tiếp với các hệ thống Robot, có những kỹ năng xanh, kỹ năng số. Điều này tác động tới hệ thống GDNN, buộc hệ thống này phải đổi mới để thích ứng và trước hết và trên hết, phải đổi mới trong các nội dung của Luật GDNN.

3. Những quan tâm khi sửa Luật GDNN

Trước những tồn tại, bất cập của Luật GDNN và trước yêu cầu của bối cảnh mới và đặc biệt thực hiện những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước về đổi mới KHCN được nêu trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về Đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW (theo kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Hội nghị trung ương 6 Khóa XIII), Luật GDNN cần phải điều chỉnh, sổ sung triệt để, theo tinh thần “cách mạng”. Tuy nhiên, theo chúng tôi, có một số vấn đề cần được quan tâm, đó là:

– Thứ nhất, cần đồng bộ hóa các bất cập, các chồng chéo trong các  quy định của một số luật có liên quan, trước hết là giữa Luật GDNN và Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Giáo dục đại học và Luật Việc làm. Do GDNN gắn với doanh nghiệp với thị trường lao động nên những quy định của Luật GDNN phải được đồng bộ hóa với các quy định có liên quan trong Luật Doanh nghiệp và Luật Việc làm (nhất là với vấn đề phát triển kỹ năng).

– Thứ hai, cần làm rõ, “định vị” được GDNN trong hệ thống giáo dục quốc dân (GDQD). Câu hỏi đặt ra là GDNN được hiểu là một cấp học hay là một phân hệ? Bởi lẽ trong Luật Giáo dục hiện hành (Luật 2019),  tại khoản 2 điều 6 có quy định: Cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:

  1. a) Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo;
  2. b) Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông;
  3. c) Giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác;
  4. d) Giáo dục đại học đào tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.

Trong khi đó, Luật GDNN (2014), chủ yếu có những quy định đối với cơ sở GDNN, bao gồm trung tâm GDNN, trường trung cấp, trường cao đẳng. Theo chúng tôi, cần làm rõ tính “chung” của GDNN với hệ thống GDQD và tính “riêng”, tính “đặc thù” của GDNN, đó là gắn rất chặt chẽ với doanh nghiệp và và chịu tác động mạnh trước những thay đổi của doanh nghiệp và thị trường lao động.

Học sinh các trường THCS tham quan trải nghiệm ngành nghề tại Trường cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Bà Rịa Vũng Tàu
Học sinh các trường THCS tham quan trải nghiệm ngành nghề tại Trường cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Bà Rịa Vũng Tàu

– Thứ ba, theo chúng tôi, quan trọng nhất đối với GDNN, đó là các quy định về doanh nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp. Thời gian qua, việc hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp đã có sự thay đổi tích cực, nhưng nhìn chung, như nhiều đánh giá của các cơ quan chuyên môn, các nhà khoa học, việc hợp tác này chưa hiệu quả, mang nặng tính hình thức.

Nguyên nhân có nhiều, nhưng theo chúng tôi, doanh nghiệp chưa thấy được rõ lợi ích khi tham gia hoạt động GDNN. Do vậy trong sửa đổi Luật GDNN lần này cần thể hiện được tinh thần win-win trong quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Cần quy định rõ quyền (bao gồm lợi ích) và trách nhiệm của doanh nghiệp khi tham gia hoạt động GDNN như tham gia xây dựng chương trình đào tạo, tham gia giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của HSSV tại cơ sở GDNN; trách nhiệm đóng góp kinh phí trong đào tạo nghề nghiệp khi tiếp nhận sinh viên sau khi tốt nghiệp tại các cơ sở GDNN vào làm việc tại doanh nghiệp (có thể thông qua một quỹ phát triển GDNN được quản lý chung?)…

– Thứ tư, trong bối cảnh thực hiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia và thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, Luật nên có những quy định việc ứng dụng công nghệ số trong hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường và quản trị hệ thống GDNN. Nên có các quy định về trang bị kỹ năng số, xây dựng nhà trường số, quản trị số trong nhà trường, bao gồm cả vấn đề cấp văn bằng, chửng chỉ số…

Trong bối cảnh thực hiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia và thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, Luật nên có những quy định việc ứng dụng công nghệ số trong hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường và quản trị hệ thống GDNN. Nên có các quy định về trang bị kỹ năng số, xây dựng nhà trường số, quản trị số trong nhà trường, bao gồm cả vấn đề cấp văn bằng, chửng chỉ số…

                                                                             PGS.TS Mạc Văn Tiến

                                        Phó Chủ tịch Hiệp hội GDNN và Nghề CTXH Việt Nam