Ngày 24/12, tại Hà Nội, Hội Người mù Việt Nam đã tổ chức chương trình tập huấn “Chính sách, pháp luật về giáo dục nghề nghiệp, lao động, việc làm đối với người khuyết tật” dành cho người khuyết tật, doanh nghiệp có sử dụng lao động người khuyết tật, các sở/ ngành liên quan trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Đặc biệt, buổi tập huấn có sự chia sẻ của của các chuyên gia của một số đơn vị liên quan về các vấn đề như: Những chính sách chung về Người khuyết tật, chính sách bảo trợ xã hội đối với NKT; Chính sách hỗ trợ về giáo dục nghề nghiệp cho NKT; Chính sách hỗ trợ vay vốn dành cho NKT.
Ông Nguyễn Trung Thành, Phó trưởng phòng chính sách, Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội với tham luận “Những chính sách chung về NKT, chính sách bảo trợ xã hội đối với NKT” đã chia sẻ những mục tiêu trong chính sách bảo trợ xã hội đối với NKT là: hướng tới việc đảm bảo quyền, nâng cao chất lượng cuộc sống của NKT; cụ thể hóa trách nhiệm của nhà nước và xã hội đối với NKT; việc thực hiện chính sách phải đảm bảo công bằng, công khai và kịp thời; ưu tiên theo mức độ khó khăn và tại gia đình nơi sinh sống; thay đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế đất nước và mức sống tối thiểu dân cư từng thời kỳ.
Chính sách bảo trợ xã hội hiện hành đối với NKT bao gồm: Trợ cấp xã hội hàng tháng; hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng; hỗ trợ chi phí mai tang; chăm sóc, nuôi dưỡng trong cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội. Vấn đề dạy nghề cho NKT, các cơ sở dạy nghề tổ chức đào tạo nghề cho người khuyết tật phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Người khuyết tật học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. Về giáo dục đối với NKT, theo nội dung cơ bản Luật NKT năm 2010: Nhà nước tạo điều kiện để NKT được học tập phù hợp với nhu cầu khả năng; NKT được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác, xét cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập…

Chia sẻ tại buổi tập huấn, TS Phạm Thị Hoàn – Phó Vụ trưởng Vụ Đào tạo thường xuyên, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cũng trình bày tham luận “Chính sách Giáo dục nghề nghiệp đối với NKT”.
Đề cập đến những kết quả trong việc xây dựng mô hình đào tạo nghề, tạo việc làm cho NKT, Bà Hoàn cho biết 3 mô hình hiệu quả được triển khai ở các Bộ, ngành bao gồm: Mô hình 1: Doanh nghiệp trực tiếp tổ chức đào tạo nghề và tổ chức việc làm cho NKT. Mô hình 2: Cơ sở đào tạo (trường, trung tâm) tổ chức đào tạo nghề, doanh nghiệp tổ chức việc làm cho NKT sau khi học xong theo hợp đồng giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp. Mô hình 3: Cơ sở đào tạo ( trường, trung tâm) tổ chức đào tạo nghề theo nhu cầu của NKT và phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức của NKT hỗ trợ, hướng dẫn tổ chức việc làm cho NKT. Việc triển khai dạy nghề cho NKT trong thời gian qua có những thuận lợi, thu hút được các tổ chức xã hội, tổ chức vì NKT ở trung ương và các địa phương hàng năm đã tham gia dạy nghề và hỗ trợ hàng ngàn NKT có việc làm, thu nhập. Các đơn vị điển hình trong công tác tổ chức tốt dạy nghề cho NKT như: Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi trẻ em Việt Nam, Hội Người mù Việt Nam, Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam, Hội Doanh nghiệp của thương binh và NKT Việt Nam. Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế có văn phòng ở Việt Nam như: ILO, Handicap, CRS, VNAH, Hội chữ thập đỏ Tâp Ban Nha… đã tham gia tích cực, chủ động nắm nhu cầu học nghề, việc làm của NKT; các cuộc khảo sát, nghiên cứu đào tạo nghề, tạo việc làm cho NKT đã được triển khai; nhiều mô hình đào tạo nghề, tạo việc làm cho NKT có hiệu quả đã được triển khai, nhân rộng.
Tuy nhiên, còn có những khó khăn cơ bản do: Nhận thức của NKT và gia đình NKT còn hạn chế; NKT có nhiều hạn chế về sức khỏe, trình độ học vấn, đa số còn mang tâm lý mặc cảm, tự ti, còn chưa đủ động tham gia học nghề và có một vài bất tiện hơn khi tham gia học nghề; một số có ở giáo dục nghề nghiệp có hạ tầng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nơi ăn nghỉ tại các cơ sở chưa đảm bảo điều kiện học tập cho NKT; đội ngũ giáo viên và tư vấn, hỗ trợ NKT còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng; ngành nghề đào tạo chưa phong phú trong khi NKT lại có nhiều dạng tật khác nhau. Đặc biệt, doanh nghiệp chưa mặn mà tuyển NKT vào làm việc. NKT qua đào tạo nghề chưa tìm được việc làm, sản phẩm làm ra không được tiêu thụ hoặc tiêu thụ rất khó khăn…
Phạm Thị Hoàn đã đưa ra những giải pháp giai đoạn 2021- 2025, với mục tiêu hỗ trợ đào tạo nghề cho 200 nghìn NKT. Qua đó, khắc phục những hạn chế, rào cản, nâng cao khả năng tiếp cận về đào tạo nghề, tạo việc làm đối với NKT. Những giải pháp tập trung đó là: Tăng cường truyền thông, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quyền và trách nhiệm của NKT; Khẩn trương cấp giấy chứng nhận cho những người khuyết tật dạng nhẹ; Nâng cao chất lượng đào tạo; Hỗ trợ y tế cho NKT để đảm bảo sức khỏe học nghề và tham gia thị trường lao động; Xây dựng Dự án hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng chính sách….
Tại buổi tập huấn, BTC đã lắng nghe những ý kiến, phản hồi và hỏi đáp những thắc mắc liên quan đến cơ chế, chính sách của đào tạo nghề đối với NKT; những vấn đề giám định khuyết tật để được hỗ trợ các chính sách về đào tạo nghề; chính sách cho NKT vay vốn… Đồng thời, sẽ đẩy mạnh triển khai mạnh mẽ hơn nữa trong công tác đào tạo nghề đối với đối tượng NKT, giúp NKT có cơ hội việc làm và có thu nhập ổn định.
Thu Thủy