03/12/2025 12:57:42

Giáo dục nghề nghiệp 2025: Tái cấu trúc, chuyển đổi và gắn kết doanh nghiệp

Bài 1 – Giáo dục nghề nghiệp 2025: Nghịch lý việc làm cao, sức hút vẫn thấp

Năm 2025 được xem là thời điểm bản lề của hệ thống Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) khi hàng loạt biến động về thể chế, sáp nhập hành chính, thiếu hụt nhân lực và chuyển đổi số đang gây áp lực cho hệ thống GDNN nói chung. Thực trạng tỷ lệ việc làm của sinh viên tốt nghiệp luôn duy trì ở mức cao nhưng sức hút của GDNN vẫn chưa tương xứng, chính là bài toán cần có lời giải.

Những phân tích thẳng thắn từ các Sở Giáo dục và Đào tạo cùng các trường cao đẳng tại hội nghị GDNN – GDTX 2025 cho thấy các nút thắt cần sớm được tháo gỡ để GDNN có thể “bật lên” đúng vai trò trụ cột nhân lực quốc gia.

Vì sao học nghề chưa thật sự hấp dẫn?

Hệ thống GDNN tính đến tháng 09/2025 có 1.163 cơ sở, trong đó khu vực tư thục chiếm hơn một nửa. Theo báo cáo của Cục GDNN – GDTX, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đạt trên 80%, trong đó 70 – 75% người tốt nghiệp có việc làm đúng ngành, nghề đào tạo. Thậm chí nhiều trường tỷ lệ này đạt mức tuyệt đối 100% và 85 – 90%.

Đại diện Sở GD&ĐT Hải Phòng cho biết, nhiều vị trí tay nghề như Hàn, Điện công nghiệp, Công nghệ ô tô có tỷ lệ việc làm vượt nhu cầu, cho thấy liên kết đào tạo doanh nghiệp đã có chuyển biến tích cực.

Nhiều trường nghề tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đạt mức tuyệt đối 100% và 85 – 90% người tốt nghiệp làm đúng ngành, nghề đào tạo.

Tuy vậy, sức hút đầu vào lại đi theo chiều ngược lại. Tại nhiều địa phương, người học chủ yếu chọn sơ cấp hoặc khóa học dưới ba tháng. Sở GD&ĐT Hải Phòng chỉ ra thực tế rằng đào tạo trung cấp và cao đẳng, vốn là lực lượng nòng cốt cho công nghiệp hóa, chỉ chiếm khoảng 20% tổng quy mô tuyển sinh. Điều này khiến cơ cấu nhân lực mất cân đối, trong khi thị trường lao động đang thiếu trầm trọng kỹ thuật viên trình độ cao.

Tại Tây Nguyên và các vùng khó khăn, thách thức càng lớn hơn. Sở GD&ĐT Đắk Lắk cho biết chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn đang “tụt lại” so với mặt bằng giá cả, dẫn đến giảm mạnh sức hút người học. Các trung tâm sau sáp nhập ở An Giang còn đối mặt tình trạng thiếu giáo viên cơ hữu, không đủ nhân lực để duy trì các ngành nghề truyền thống.

Những con số tích cực về đầu ra không đủ bù lại sự tuyệt đối thận trọng của người học. Đây là nghịch lý lớn nhất của GDNN hiện nay, và cũng là tín hiệu cảnh báo cần tái cấu trúc mạnh hơn.

Bài toán tái cấu trúc toàn diện

Nghịch lý việc làm cao nhưng tuyển sinh thấp, áp lực sáp nhập, thiếu giáo viên, thiếu thiết bị và nhu cầu chuyển đổi số đang đặt GDNN trước yêu cầu tái cấu trúc toàn diện. Theo các chuyên gia, chỉ khi các địa phương đồng thời đổi mới quản trị, tăng gắn kết doanh nghiệp và xây dựng môi trường học tập hiện đại, GDNN mới có thể thoát khỏi vòng lặp cũ và trở thành lực lượng nòng cốt của chiến lược phát triển nhân lực quốc gia.

Thực tế, quá trình sắp xếp đơn vị hành chính và triển khai mô hình chính quyền hai cấp đang tạo ra thay đổi sâu rộng trong quản trị GDNN – GDTX ở nhiều địa phương. Từ ngày 1/7/2025, các trung tâm GDNN – GDTX quận, huyện của Hà Nội đã được chuyển về trực thuộc Sở để thống nhất chuyên môn. Đại diện Sở GD&ĐT Hà Nội cho biết việc này đòi hỏi rà soát nhân sự, bổ nhiệm lại các vị trí quản lý và xây dựng kế hoạch biên chế mới nhằm đảm bảo bộ máy vận hành thông suốt.

Sau sáp nhập ngoài vấn đề về cơ sở vật chất thì nhân lực cũng là một trong những bài toán mà các trường nghề đang phải tập trung giải quyết.

Cần Thơ là địa phương đi đầu trong tái cơ cấu. Thành phố đã sáp nhập 08 trường cao đẳng thành 04, đồng thời quy hoạch lại 27 trung tâm GDTX còn 14 trung tâm khu vực. Tuy vậy, đại diện Sở GD&ĐT Cần Thơ nhấn mạnh rằng, cần có hướng dẫn chính thức của Trung ương về mô hình Trường trung học nghề để việc tái thiết kế mạng lưới có cơ sở pháp lý vững chắc.

Trong khi đó, Hải Phòng tập trung giải quyết bài toán nhân lực sau sáp nhập. Sở GD&ĐT Hải Phòng đã tham mưu bố trí cán bộ chuyên môn giáo dục tại tất cả xã, phường nhằm bảo đảm công tác quản lý GDTX và phổ cập giáo dục không bị gián đoạn. Đây là mô hình “giữ chân năng lực” tại cơ sở, phù hợp với đặc thù địa phương đông dân và nhu cầu học tập lớn.

Thách thức lớn nhất vẫn nằm ở sự chênh lệch cơ sở vật chất và đội ngũ. Sở GD&ĐT Đắk Lắk thừa nhận tình trạng cơ sở vật chất xuống cấp, thiết bị dạy nghề đa phần được mua từ năm 2009, không còn phù hợp với công nghệ doanh nghiệp. Tại An Giang, việc thiếu giáo viên sau sáp nhập buộc nhiều trung tâm phải thu hẹp ngành nghề, gây ảnh hưởng tới mục tiêu đào tạo theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Sự tinh gọn bộ máy chỉ phát huy hiệu quả khi đi kèm nguồn lực và cơ chế vận hành linh hoạt. Nếu không, sáp nhập dễ dẫn tới “giảm đầu mối trên giấy, tăng phân tán trên thực tế”.

Cần quản trị theo nhu cầu thị trường, tăng gắn kết người học

Các địa phương đã đề xuất nhiều giải pháp có thể tạo hình mẫu mới cho GDNN – GDTX trong giai đoạn hậu sáp nhập. Nổi bật trong đó là đề xuất của Sở GD&ĐT Lào Cai về mô hình quản lý theo khu vực. Theo đề xuất, UBND xã chịu trách nhiệm thống kê nhu cầu học nghề và vận động người dân. Trung tâm GDNN – GDTX phụ trách chuyên môn và quản lý cộng tác viên theo cụm xã. Sở đảm nhiệm vai trò điều phối và kiểm định chất lượng. Mô hình này giúp tập trung nhân lực nhưng vẫn bảo đảm tiếp cận cộng đồng.

Một vấn đề được các trường chỉ ra là việc gắn kết đào tạo với doanh nghiệp có hiệu quả khi, họ có quyền “đồng thiết kế, đồng đào tạo và đồng đánh giá”.

Sở GD&ĐT Hà Nội và Cần Thơ nhấn mạnh vai trò của dữ liệu trong quản trị. Việc quản lý tập trung dữ liệu tuyển sinh, phân luồng và nhu cầu thị trường lao động sẽ tạo cơ sở để điều phối nguồn lực hợp lý cho từng khu vực. Trong bối cảnh Gen Z đưa xu hướng học tập lên nền tảng số, các địa phương cần hệ thống dữ liệu đủ mạnh để dự báo và định hướng.

Cùng lúc, cần đẩy mạnh gắn kết doanh nghiệp. Các trường như CĐ Cơ điện Hà Nội, CĐ Nghề THACO hay Lilama2 đã chứng minh rằng doanh nghiệp chỉ tham gia bền vững khi họ có quyền “đồng thiết kế, đồng đào tạo và đồng đánh giá”. Đại diện Sở GD&ĐT Hải Phòng nhìn nhận đây là con đường duy nhất để tăng sức hút người học và thu hẹp khoảng cách công nghệ.

Dù còn nhiều vướng mắc, các đề xuất từ địa phương cho thấy GDNN đang dần chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang quản trị theo nhu cầu thị trường. Đó là bước đi tất yếu để GDNN trở thành cấu phần năng động của nền kinh tế thay vì chỉ là hệ thống bổ trợ cho giáo dục phổ thông.

Thanh Quang