27/08/2025 14:57:05

LOẠT BÀI: ƯƠM MẦM TRI THỨC, BỆ PHÓNG TƯƠNG LAI

Bài 2: Trường phổ thông dân tộc nội trú – Mũi nhọn giáo dục dân tộc

Mời đọc Bài 1: Quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển trường phổ thông dân tộc nội trú

Mô hình giáo dục phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) là một chính sách đặc thù của Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu công bằng giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, tạo nguồn cán bộ dân tộc, một trung tâm văn hoá, khoa học, kỹ thuật ở vùng đồng bào DTTS&MN.

Học sinh dân tộc thiểu số tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú xã Văn Chấn, tỉnh Lào Cai được tạo mọi điều kiện tốt nhất để học tập, vui chơi, giải trí (ảnh: PL)
Học sinh dân tộc thiểu số tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú xã Văn Chấn, tỉnh Lào Cai được tạo mọi điều kiện tốt nhất để học tập, vui chơi, giải trí (ảnh: PL)

Theo Quy chế tổ chức và hoạt động của trường PTDTNT, trường được Nhà nước thành lập cho học sinh là người DTTS, học sinh thuộc gia đình định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Học sinh trường PTDTNT được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết để ăn học, được nhà trường tổ chức nuôi dạy và sống nội trú ở trường trong quá trình học tập. Hệ thống trường PTDTNT gồm: Trường PTDTNT trung học cơ sở; Trường PTDTNT trung học phổ thông; Trường PTDTNT trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Trước đây, Trường PTDTNT trung học cơ sở do UBND tỉnh quyết định thành lập, UBND huyện quản lý. Trường PTDTNT trung học phổ thông, Trường PTDTNT có cấp học cao nhất là trung học phổ thông do UBND tỉnh quyết định thành lập, Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý. Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với UBND cấp huyện xây dựng nội dung phối hợp quản lý và tổ chức các hoạt động giáo dục liên quan đến trường PTDTNT trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Các trường PTDTNT có 5 nhiệm vụ: Chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý học sinh dân tộc nội trú; đảm bảo các điều kiện để học sinh dân tộc nội trú được học tập, ăn, ở và sinh hoạt an toàn tại trường; Tổ chức các hoạt động giáo dục đặc thù phù hợp với học sinh dân tộc nội trú; Giáo dục học sinh về chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, ý thức tham gia phục vụ phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào DTTS&MN, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; Giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề truyền thống phù hợp với năng lực, phẩm chất của học sinh, điều kiện và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; Theo dõi, thống kê số lượng học sinh, đánh giá hiệu quả giáo dục hằng năm và theo từng giai đoạn để xây dựng các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của trường.

Mô hình giáo dục này có nhiều ưu điểm, đó là: Tạo điều kiện học tập công bằng trong tiếp cận giáo dục cho học sinh DTTS ở vùng khó khăn. Học sinh ở vùng sâu, vùng xa được tuyển chọn và đưa về học tại các trường nội trú có điều kiện học tập tốt hơn trong môi trường sư phạm ổn định, kỷ luật. Cộng với việc được miễn giảm học phí, được hỗ trợ chi phí ăn, ở, học tập sẽ làm giảm gánh nặng tài chính cho gia đình. Ngoài việc dạy văn hóa, các trường còn tổ chức nhiều hoạt động nội trú, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề… nhằm phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực cho học sinh DTTS.

5 năm qua, các chính sách ưu tiên phát triển mô hình trường PTDTNT đã mang lại những kết quả rất to lớn, quan trọng. Đến năm học 2023 – 2024, cả nước có 318 trường PTDTNT tại 48 tỉnh, thành phố, với 103.847 HS (trong đó có 57.069 HS cấp THCS và 46.778 HS cấp THPT). Số liệu từ Văn phòng Điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN thuộc Bộ Dân tộc và Tôn giáo cho thấy, giai đoạn 2021 – 2025, Nhà nước đã “mạnh tay” chi hơn 8 nghìn tỷ đồng cho 1.032 trường PTDTNT, trường PTDTBT, trường phổ thông có học sinh ở bán trú nhằm tăng cường cơ sở vật chất, lớp học, đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại như ti vi thông minh, máy tính xách tay để đảm bảo tốt việc tổ chức dạy – học, giúp duy trì và phát huy hiệu quả mô hình trường.

Hiện nay, học sinh nội trú được hưởng các chính sách của Nhà nước trung bình khoảng 23 triệu đồng/em/năm. Với việc được “3 tập trung” (ăn tập trung, ở tập trung, quản lý tập trung) đã giúp các em có môi trường sống “6 hơn” ở nhà, đó là: ăn ngon hơn, ở tốt hơn, học tập tốt hơn, vui hơn, an toàn hơn và kỹ năng sống tốt hơn… Qua theo dõi, Bộ Dân tộc và Tôn giáo đánh giá, mô hình giáo dục này đã có tác động tích cực tới việc huy động tối đa học sinh trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, tỷ lệ học sinh đi học không chuyên cần, tỷ lệ học sinh lưu ban. Đặc biệt, tỷ lệ tốt nghiệp THPT của học sinh các trường PTDTNT những năm gần đây đều tăng, một số trường PTDTNT tỉnh có tỷ lệ tốt nghiệp luôn giữ ở mức cao 100%. Trong số học sinh các trường PTDTNT tốt nghiệp THPT hàng năm, có trên 60% học sinh thi đỗ thẳng vào đại học, cao đẳng, khoảng 13% vào cử tuyển và dự bị đại học, khoảng trên 25% vào trung cấp, dạy nghề. 100% học sinh DTTS rất ít người có nguyện vọng đều được tiếp nhận vào các trường PTDTBT, PTDTNT tiếp tục học lên THPT, giáo dục nghề nghiệp, đại học theo nguyện vọng, thông qua chính sách tuyển thẳng và xét tuyển thẳng. Hệ thống trường PTDTBT đã và đang làm thay đổi chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào DTTS&MN; khẳng định được vai trò to lớn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, là nền móng để đào tạo những cán bộ chủ chốt tại các địa phương ở vùng DTTS. Các trường PTDTNT từng bước khẳng định vị thế hàng đầu về chất lượng giáo dục ở vùng DTTS&MN.

Một minh chứng điển hình tại trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc – nơi đang đào tạo hệ PTDTNT, nhà trường luôn duy trì quy mô trên 2.000 học sinh/năm học. Lãnh đạo trường cho biết, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT đạt 100%. 100% học sinh khối 12 sau khi tốt nghiệp đủ điều kiện đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, dự bị đại học. Từ năm 2020 đến 2025, học sinh giỏi quốc gia hằng năm đạt từ 18 – 20 giải; học sinh giỏi cấp tỉnh 344 giải/năm học. Ngoài ra, học sinh của nhà trường tích cực tham gia các cuộc thi nghiên cứu khoa học – kỹ thuật cấp quốc gia, nghiên cứu khoa học quốc tế với nhiều thành tích xuất sắc: 07 Huy chương Vàng nghiên cứu khoa học Quốc tế, 01 giải Nhất nghiên cứu khoa học kỹ thuật cấp quốc gia. Nhà trường đã đào tạo hơn 600 em học sinh dân tộc rất ít người: Ngái, Lự, Mảng, Si La, Bố Y, La Hủ… Nhiều học sinh trở thành nguồn nhân lực chất lượng cho cộng đồng và xã hội. Có em được kết nạp vào Đảng, trở thành những “hạt giống đỏ” cho địa phương.

Những kết quả đạt được là minh chứng khẳng định dù ở vùng sâu, vùng xa song nếu được quan tâm, đầu tư, học sinh DTTS hoàn toàn có thể đạt thành tích như học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội thuận lợi, đóng góp vào mục tiêu giảm nghèo bền vững và phát triển toàn diện vùng DTTS&MN trên toàn quốc, góp phần đào tạo nguồn nhân lực kế cận có chất lượng cho vùng, bởi sau khi tốt nghiệp, nhiều học sinh quay về làm cán bộ địa phương.

Những kết quả đó cũng trở thành mảnh ghép minh họa sống động cho bức tranh giáo dục dân tộc vừa được Bộ Dân tộc và Tôn giáo cập nhật (tháng 7/2025) từ kết quả cuộc điều tra lần thứ III thực trạng kinh tế – xã hội 53 DTTS. Đó là tỷ lệ biết đọc, biết viết chữ phổ thông của người DTTS từ 15 tuổi trở lên (tính đến 01/7/2024) đã đạt 84,6%, tăng 3,7% so với năm 2019. Nhiều DTTS đã đạt tỷ lệ người biết đọc, biết viết chữ phổ thông rất cao: Tày (96,2%), Ngái (97,4%), Mường (96%), Thổ (95,5%), Hoa (92,6%), Nùng (91,1%), Sán Dìu (97,3%), Ơ Đu (90,5%), Sán Chay (90,4%)… Tỷ lệ đi học chung của dân số DTTS đạt 103,2%. Tỷ lệ đi học đúng tuổi phân theo cấp tiểu học đạt 96,3%; cấp Trung học cơ sở đạt 86,6%; cấp Trung học phổ thông đạt 51,1%… Không chỉ dừng ở lĩnh vực giáo dục, các kết quả trên còn lan toả đến đời sống xã hội, góp phần ổn định dân cư, tăng cường an ninh quốc phòng vùng biên giới, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng; khơi dậy ý thức vươn lên của đồng bào DTTS; nhận thức của đồng bào về trách nhiệm của gia đình đối với nuôi dạy con cái ngày càng được nâng cao, các tập tục lạc hậu từng bước được xoá bỏ; củng cố niềm tin của nhân dân đối với các chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước.

Những con số đã tự “biết nói”, khẳng định Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán về chủ trương, đường lối và hành động để đạt được 4 chữ Thật: “Nói thật, làm thật, hiệu quả thật và người dân thụ hưởng thật” trong giáo dục. Bởi chăm lo phát triển giáo dục dân tộc, trong đó mũi nhọn là mô hình trường PTDTNTchính  là con đường đúng đắn nhất để nâng cao dân trí; là cách giải quyết tận gốc bài toán đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; là lời khẳng định mạnh mẽ ở vùng đồng bào DTTS&MN, không ai bị bỏ lại phía sau trong hành trình giáo dục. Cũng cần nói thêm là từ năm 1982, Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc. Điều 5 Công ước ghi nhận quyền được giáo dục đào tạo của người DTTS. Là thành viên có trách nhiệm, có uy tín cao trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã thể hiện việc chấp hành Công ước bằng hành động thực chất để quyền được học tập của người DTTS được tôn trọng, đảm bảo, thúc đẩy. Dù họ thuộc dân tộc nào, sinh sống ở nơi khó khăn, hẻo lánh ra sao thì cũng đều được tiếp cận với giáo dục. Càng sinh sống ở nơi đặc biệt khó khăn, các em càng được tạo điều kiện đi học dưới mái trường PTDTNT, để giáo dục trở thành ngọn đuốc dẫn đường chỉ lối cho các em có nền tảng tri thức vươn lên trong cuộc sống./.

Mời đọc Bài cuối: Chấn hưng giáo dục ở vùng biên – Sẵn sàng cho Kỷ nguyên mới

Hoàng Thị Phương Liên

(Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc và Tôn giáo)