27/08/2025 20:02:16

GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP VIỆT NAM – 80 NĂM VỮNG BƯỚC CÙNG ĐẤT NƯỚC

Bài 4: Tích cực chuyển mình, khẳng định vị thế quốc gia, hội nhập quốc tế (2000 – 2025)

Mời đọc:

– Bài 1: Từ xưởng thợ kháng chiến đến nền tảng công nhân kỹ thuật – Chặng đường 1945 – 1975

– Bài 2: Xây dựng đất nước trong cơ chế bao cấp – Mạng lưới trường nghề rộng khắp (1975 – 1986)

– Bài 3: Giáo dục nghề nghiệp – Xây dựng nền tảng cho công cuộc đổi mới (1986 – 1999)

Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức lớn từ làn sóng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong dòng chảy ấy, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) không chỉ là “cầu nối” giữa người học và doanh nghiệp, mà còn trở thành lực lượng nòng cốt góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Từ năm 2000 đến năm 2025, GDNN Việt Nam đã trải qua ba chặng đường quan trọng: Hội nhập nền tảng (2000 – 2010), nâng chuẩn và khẳng định vị thế (2010 – 2020), và chuyển đổi số toàn diện (2020 – 2025). Hành trình 25 năm này phản ánh một quá trình tích cực chuyển mình, từng bước đưa Việt Nam từ một nền giáo dục nghề nghiệp “đủ để làm việc” đến một hệ thống hiện đại, hội nhập quốc tế, sẵn sàng cạnh tranh toàn cầu.

Hội nhập sâu rộng – Nền móng pháp lý và thể chế (2000 – 2010)

Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 không chỉ mở ra cánh cửa thương mại toàn cầu, mà còn đặt GDNN vào tâm điểm cải cách. Trước yêu cầu hội nhập, hệ thống đào tạo nghề không thể dừng ở “đào tạo thợ” mà phải tiến tới “đào tạo chuyên gia theo chuẩn quốc tế”(1).

Trước thực tế đó, một loạt chính sách quan trọng được ban hành nhằm tạo nền móng cho GDNN phát triển, cụ thể: Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 (Quyết định 201/2001/QĐ-TTg), coi GDNN là khâu then chốt thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa(1)(2); Luật Dạy nghề năm 2006 và các văn bản hướng dẫn, lần đầu phân định rõ ba trình độ đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng nghề), mở đường xã hội hóa và hợp tác quốc tế(3); Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn (2009) mở rộng cơ hội học nghề đến tận cơ sở, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm nghèo bền vững(13).

Hội nhập quốc tế đã và đang đem đến những thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu nhân lực và hoạt động sản xuất trong thị trường lao động tương lai.
Hội nhập quốc tế đã và đang đem đến những thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu nhân lực và hoạt động sản xuất trong thị trường lao động tương lai.

Đáng chú ý, Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn (Quyết định 1956/QĐ-TTg, 2009) chiến lược này đã từng bước đưa GDNN về các vùng nông thôn, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm nghèo và thu hút nguồn nhân lực vào các ngành mũi nhọn.

Nhờ đầu tư có trọng điểm, nhiều cơ sở như Trường Cao đẳng nghề Việt – Đức, Lilama 2, Kỹ nghệ II được trang bị thiết bị lập chương trình gia công, vận hành và điều chỉnh được máy tiện, máy Phay (CNC), phòng thực hành hiện đại, áp dụng mô hình đào tạo kép (học tại trường – thực hành tại doanh nghiệp), tăng cường kỹ năng thực tế cho người học(10). Các ngành nghề mới như công nghệ thông tin, du lịch – khách sạn, điện – điện tử – tự động hóa được bổ sung, bắt kịp nhu cầu FDI và hội nhập(10). Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng nhanh trong thập niên này, góp phần nâng chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa(10).
Cùng với hội nhập, xuất khẩu lao động có tay nghề trở thành kênh quan trọng giúp người học nghề tiếp cận công nghệ, kỷ luật lao động và thu nhập cao hơn; đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh lao động Việt Nam(12).

Điểm nhấn GDNN gai đoạn 2000-2010: Việt Nam gia nhập WTO (2007), mở ra cánh cửa hội nhập toàn diện; Ban hành Luật Dạy nghề (2006), đặt nền móng pháp lý hiện đại cho hệ thống GDNN; Hình thành 312 trường cao đẳng, trung cấp nghề; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 13,4% (2000) lên 26,1% (2010); Đề án 1956 (2009) về đào tạo nghề cho lao động nông thôn giúp hàng trăm nghìn người có việc làm, giảm nghèo bền vững; Hơn 500.000 lao động được đào tạo và xuất khẩu, chủ yếu sang Nhật, Hàn, Malaysia – góp phần quảng bá tay nghề Việt Nam ra thế giới, sự phát triển của GDNN góp phần giảm áp lực thất nghiệp nội địa và tăng thu ngoại tệ.

Nâng chuẩn – Hội nhập khu vực và quốc tế (2010 – 2020)

Nếu giai đoạn 2000 – 2010 được coi là bước khởi đầu hội nhập, thì thập niên 2010 – 2020 là thời kỳ nâng tầm chất lượng và khẳng định uy tín của GDNN Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Đây là giai đoạn mà nhu cầu về nhân lực chất lượng cao trở nên bức thiết khi Việt Nam bước vào hàng loạt hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA…) và cam kết hội nhập ASEAN.

Một loạt chính sách mang tính bước ngoặt đã ra đời: Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 (lần đầu hợp nhất hệ thống trung cấp, cao đẳng nghề và giáo dục chuyên nghiệp), Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN đến 2020, cùng nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề. Các chính sách này nhấn mạnh ba trụ cột: mở rộng quy mô – nâng chuẩn chất lượng – gắn kết thị trường lao động. Đây cũng là thập niên mà Nhà nước khẳng định GDNN là “đòn bẩy” nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia(3)(10)(11).

Đến năm 2020, cả nước có gần 2.000 cơ sở GDNN, trong đó nhiều trường được đầu tư thành trường chất lượng cao, có khả năng đào tạo ngang tầm ASEAN và tiệm cận chuẩn G20.
Đến năm 2020, cả nước có gần 2.000 cơ sở GDNN, trong đó nhiều trường được đầu tư thành trường chất lượng cao, có khả năng đào tạo ngang tầm ASEAN và tiệm cận chuẩn G20.

Đến năm 2020, cả nước có gần 2.000 cơ sở GDNN, trong đó nhiều trường được đầu tư thành trường chất lượng cao, có khả năng đào tạo ngang tầm ASEAN và tiệm cận chuẩn G20. Hệ thống GDNN mỗi năm tuyển sinh hàng triệu học viên, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp tăng rõ rệt so với thập niên trước. Đặc biệt, nhiều ngành nghề mới như logistics, năng lượng tái tạo, công nghệ thông tin, điện – điện tử – tự động hóa được bổ sung để đáp ứng sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế(8)(10).

Việt Nam tích cực tham gia Khung trình độ ASEAN (AQRF) và chuẩn kỹ năng nghề khu vực, qua đó tạo điều kiện để lao động Việt Nam có thể chuyển dịch trong ASEAN. Tại các kỳ thi Tay nghề ASEAN và WorldSkills, đoàn Việt Nam liên tục giành huy chương, nhiều nghề lọt vào nhóm xuất sắc, khẳng định uy tín của kỹ năng lao động Việt Nam trên bản đồ khu vực và quốc tế(8)(9). Ngoài ra, xuất khẩu lao động có tay nghề được đẩy mạnh, đặc biệt sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, tạo cơ hội cho hàng trăm nghìn lao động tiếp cận công nghệ tiên tiến, tác phong công nghiệp hiện đại.

Điểm khác biệt lớn của giai đoạn này là chuyển từ đào tạo theo “cung” sang đào tạo theo “cầu”, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Nhiều chương trình đào tạo được xây dựng theo hướng mô-đun, linh hoạt, cập nhật chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo, từ thiết kế chương trình, hỗ trợ thiết bị, đến tiếp nhận học viên thực tập. Nhờ vậy, tỷ lệ học viên có việc làm sau tốt nghiệp đạt mức cao, nhiều nghề đạt trên 80–90% (4)(8)(12).

Dấu ấn thập niên: Khoảng 10 triệu lao động được đào tạo nghề, cung ứng trực tiếp cho các ngành mũi nhọn; Hơn 40 trường nghề đạt chuẩn khu vực và quốc tế; Việt Nam vươn lên top đầu Đông Nam Á về thành tích tại các kỳ thi Tay nghề; Ngành nghề đào tạo mở rộng, gắn với kinh tế số và công nghiệp 4.0; Ngành nghề mới ra đời: logistics, công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo(8)(9)(10).

Có thể nói, giai đoạn 2010 – 2020 đã đưa GDNN Việt Nam vượt qua ranh giới “hội nhập ban đầu” để bước sang một cấp độ mới: hội nhập thực chất và khẳng định vị thế. Đây chính là nền tảng quan trọng cho những bước chuyển đổi số bứt phá trong giai đoạn 2020 – 2025.

Chuyển đổi số – Bứt phá trong thử thách (2020 – 2025)

Đại dịch COVID-19, không chỉ là phép thử khắc nghiệt đối với nền kinh tế – xã hội toàn cầu, mà còn trở thành “cú hích buộc phải thay đổi” của hệ thống giáo dục nghề nghiệp Việt Nam. Khi hàng loạt cơ sở đào tạo phải đóng cửa, việc dạy – học trực tiếp bị gián đoạn, các trường nghề đã nhanh chóng chuyển mình sang môi trường số.

Hình thức học trực tuyến được triển khai đồng loạt, không chỉ dừng ở những môn lý thuyết mà còn mở rộng sang kỹ năng nghề vốn tưởng chỉ có thể học trực tiếp. Các phần mềm mô phỏng 3D, lớp học ảo, thực tế ảo (VR/AR) bắt đầu được áp dụng, cho phép học viên thực hành “trên môi trường số” với các thao tác gần sát thực tế. Ví dụ, nghề điện công nghiệp có thể sử dụng phần mềm mô phỏng mạch điện; nghề cơ khí – hàn có thể luyện tập trên nền tảng mô phỏng 3D trước khi cầm dụng cụ thật.

Đặc biệt, nhiều trường đã hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ để đưa mô hình nhà máy thông minh, dây chuyền sản xuất ảo vào giảng dạy. Điều này giúp học viên tiếp cận sớm với công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 như robot công nghiệp, Internet vạn vật kết nối (IoT) trong sản xuất, trí tuệ nhân tạo trong quản lý chuỗi cung ứng. Có thể nói, nhờ cú hích của COVID-19, những nội dung vốn được xem là “tương lai xa” đã trở thành thực tế trong lớp học nghề.

Điều quan trọng hơn cả là: chuyển đổi số trong GDNN không còn mang tính tình thế nhằm “chống đỡ” dịch bệnh, mà đã được nhận thức là động lực then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo. Nhờ công nghệ số, quá trình dạy nghề trở nên linh hoạt hơn, học viên có thể học mọi lúc – mọi nơi, kết nối trực tiếp với doanh nghiệp và chuyên gia nước ngoài; còn nhà trường có điều kiện số hóa giáo trình, chuẩn hóa quy trình kiểm định kỹ năng.

Chính từ thử thách Covid-19, GDNN Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới: tái cấu trúc toàn diện theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, từng bước tiệm cận mô hình đào tạo nghề của các quốc gia tiên tiến(5)(9)
Mục tiêu đến 2030: Việt Nam có ít nhất 70 trường chất lượng cao (một số đạt trình độ G20); tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp đạt 40–45%; gắn kết chặt chẽ giữa trường nghề và doanh nghiệp, phát huy tự chủ và đổi mới quản trị(3)(11).

Chặng đường 2020 – 2025, nhiều cơ sở tăng mạnh quy mô đào tạo, tỷ lệ có việc làm sau tốt nghiệp thường xuyên ở mức cao; Việt Nam giành nhiều huy chương tại các kỳ thi tay nghề ASEAN 2022 – 2023, thể hiện năng lực hội nhập về kỹ năng nghề (8)(9)(11).

Anh Trần Văn Long, cựu sinh viên Cao đẳng Nghề Việt – Đức khóa 2006 – 2009 chia sẻ, chúng tôi học trên máy CNC hiện đại do Đức hỗ trợ. Nhiều bạn sau khi tốt nghiệp sang Nhật, Hàn Quốc làm việc với thu nhập cao và tích lũy kiến thức công nghệ tiên tiến.

Thành tự nổi bật giai đoạn 2020 – 2025:

Một là, chuyển đổi số toàn diện trong GDNN: COVID-19 tạo cú hích mạnh mẽ buộc các trường nghề ứng dụng công nghệ số. Học trực tuyến, mô phỏng 3D, lớp học ảo, VR/AR trở thành công cụ phổ biến, giúp học viên rèn kỹ năng ngay cả trong thời gian giãn cách. Nhiều trường đã xây dựng hệ thống quản lý đào tạo trực tuyến (LMS), số hóa giáo trình, tạo tiền đề cho đào tạo mở – linh hoạt.

Hai là, gắn kết doanh nghiệp trong đào tạo: Các cơ sở GDNN hợp tác sâu rộng với doanh nghiệp công nghệ, đưa mô hình nhà máy thông minh, dây chuyền sản xuất ảo vào giảng dạy. Học viên tiếp cận trực tiếp với robot công nghiệp, IoT, trí tuệ nhân tạo, logistics thông minh – những kỹ năng sát thực tiễn của CMCN 4.0.

Bốn là, nâng cao chất lượng và cơ hội việc làm: Tỷ lệ học viên có việc làm sau tốt nghiệp duy trì ở mức 80–85%, nhiều ngành đạt trên 90%, nhất là các ngành logistics, công nghệ thông tin, điện – điện tử – tự động hóa. Điều này cho thấy sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa đào tạo và thị trường lao động(8)(11).

Năm là, thành tích quốc tế vượt trội: Đoàn Việt Nam giành nhiều huy chương tại các kỳ thi Tay nghề ASEAN 2022, 2023; một số nghề đạt chuẩn quốc tế, khẳng định uy tín và vị thế của lao động Việt Nam trong khu vực(8)(9).

Sáu là, mở rộng ngành nghề mới: Giai đoạn này, nhiều ngành mới xuất hiện, gắn liền với chuyển đổi số và kinh tế xanh: du lịch thông minh, thương mại điện tử, AI, năng lượng tái tạo, logistics số. Đây là bước đi quan trọng để chuẩn bị nguồn nhân lực cho mô hình tăng trưởng bền vững.

Bảy là, tăng cường chính sách và đầu tư: Chiến lược phát triển GDNN 2021 – 2030, tầm nhìn 2045 được ban hành, với mục tiêu có ít nhất 70 trường chất lượng cao vào năm 2030; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp đạt 40–45%; gắn kết mạnh mẽ giữa trường – doanh nghiệp – địa phương(3)(11).

Trên nền tảng chính sách hiện có, định hướng GDNN đến 2030-2045 nhấn mạnh: Trước hết cần chuẩn hóa và quốc tế hóa chương trình – kỹ năng nghề theo chuẩn khu vực, G20(3)(11); Và chuyển đổi số toàn diện và gắn với mục tiêu kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, AI, công nghệ cao(5)(8). Đồng thờ, xây dựng hệ sinh thái học tập suốt đời, mô hình mở – linh hoạt, kết nối chặt chẽ trường – doanh nghiệp – địa phương(4)(10)(11).

Nhìn lại 2000 – 2025, GDNN đã trưởng thành vượt bậc: từ mở rộng quy mô đến nâng chuẩn chất lượng; từ “đào tạo để làm việc” sang “đào tạo để hội nhập”. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và chuyển đổi số, GDNN tiếp tục là động lực then chốt để nâng tầm vị thế quốc gia – với mục tiêu đến năm 2030 và xa hơn là năm 2045, Việt Nam có nguồn nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng cạnh tranh toàn cầu(3)(8)(11).

Mục tiêu chung là nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
Mục tiêu chung là nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.

Quan trọng hơn, GDNN không chỉ là một hệ thống đào tạo nghề, mà còn là biểu tượng của sức sống, sự thích ứng và khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam. Từ những xưởng quân giới trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, nơi những đôi bàn tay thợ thủ công góp phần làm nên sức mạnh chiến thắng, cho đến những trường nghề chuẩn quốc tế ngày nay, nơi thế hệ trẻ được tiếp cận robot công nghiệp, trí tuệ nhân tạo, sản xuất thông minh – tất cả đều phản chiếu một hành trình kiên cường và sáng tạo.

Trong tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, GDNN trở thành lực lượng then chốt, cung cấp hàng chục triệu lao động kỹ năng cho nền kinh tế, góp phần thay đổi diện mạo đất nước: từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp chế biến, từ gia công lắp ráp sang sản xuất công nghệ cao. Mỗi giai đoạn phát triển của GDNN đều song hành với những bước ngoặt lịch sử của dân tộc, là tấm gương phản chiếu cho sức bật và bản lĩnh Việt Nam.

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh khốc liệt, nguồn nhân lực chất lượng cao chính là “tài nguyên chiến lược” của quốc gia. Một lực lượng lao động được đào tạo bài bản, có kỹ năng nghề đạt chuẩn quốc tế, linh hoạt trước biến động và sáng tạo trong công việc sẽ là chìa khóa giúp Việt Nam giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hội nhập quốc tế và khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng chính là động lực để Việt Nam thực hiện thành công khát vọng đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, thịnh vượng và hùng cường.

———-

Tài liệu tham khảo:

1) https://vietnamembassy-usa.org/vi/tin-tuc/2002/05/chien-luoc-phat-trien-giao-duc-2001-2010

2) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Quyet-dinh-201-2001-QD-TTg-phe-duyet-Chien-luoc-phat-trien-giao-duc-2001-2010-48949.aspx

(3) https://baochinhphu.vn/ke-hoach-doi-moi-nang-cao-chat-luong-giao-duc-nghe-nghiep-den-nam-2030-tam-nhin-den-nam-2045-10225020715041753.htm

(4) https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/01/05/doi-moi-va-nang-cao-chat-luong-giao-duc-nghe-nghiep-dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap/

(5) https://tapchigiaoduc.edu.vn/article/88192/211/nhung-xu-huong-phat-trien-trong-linh-vuc-giao-duc-nghe-nghiep-tren-toan-cau-phan-1/

(6) https://tapchigiaochuc.com.vn/thuc-trang-va-giai-phap-quan-ly-giao-duc-nghe-nghiep.html

(7) https://daibieunhandan.vn/tu-duy-lai-giao-duc-nghe-nghiep-o-viet-nam-10374092.html

(8) https://media.chinhphu.vn/doi-moi-giao-duc-nghe-nghiep-con-nhieu-viec-phai-lam-102230606142610775.htm

(9) https://tapchilichsudang.vn/dao-tao-nghe-cho-lao-dong-nong-thon-1986-2024-mot-so-ket-qua-va-kinh-nghiem.html

(10) https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/01/05/doi-moi-va-nang-cao-chat-luong-giao-duc-nghe-nghiep-dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap/

(11) https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/

(12) https://molisa.gov.vn/

(13)https://thuvienphapluat.vn/

(14) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/

(15) https://baochinhphu.vn/

Nhất Nam

Đón đọc: Bài cuối: Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2030, tầm nhìn 2045