26/08/2025 9:33:46

GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP VIỆT NAM – 80 NĂM VỮNG BƯỚC CÙNG ĐẤT NƯỚC

Bài 3: Giáo dục nghề nghiệp – Xây dựng nền tảng cho công cuộc đổi mới (1986-1999)

Bài đã đăng:

Bài 1: Từ xưởng thợ kháng chiến đến nền tảng công nhân kỹ thuật – Chặng đường 1945–1975 

Bài 2: Xây dựng đất nước trong cơ chế bao cấp – Mạng lưới trường nghề rộng khắp (1975–1986)

————

Sau ngày đất nước thống nhất 1975, Việt Nam bước vào một giai đoạn lịch sử mới. Đó là giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, ổn định xã hội và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Trong bối cảnh kinh tế bao cấp với muôn vàn khó khăn, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) giữ một vị trí đặc biệt: vừa là nơi đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật, vừa là nền móng cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa sau này.

Bối cảnh lịch sử và nhu cầu nhân lực kỹ thuật

Từ cuối thập niên 1970, Nhà nước ban hành nhiều chính sách về phát triển GDNN, coi đây là “đội quân xung kích” của sự nghiệp khôi phục và phát triển đất nước. Các kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 và 1981 – 1985 đều dành ưu tiên lớn cho đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp nghề.

Ngành dạy nghề là ngành đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân thực hiện xã hội hóa, phá thế bao cấp trong đào tạo. Quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dạy nghề mở rộng: Việt Nam tham gia và đăng cai tổ chức Hội nghị những người đứng đầu ngành dạy nghề các nước xã hội chủ nghĩa; đã đưa khoảng 80.000 thanh niên và người lao động đi học nghề, thực tập nâng cao tay nghề tại Liên Xô (cũ), Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ), Trung Quốc, Triều Tiên, Hungari, Rumani, Ba Lan và Bungari… Đội ngũ công nhân kỹ thuật sau khi học nghề có điều kiện tiếp cận với nền sản xuất tiên tiến, với tác phong công nghiệp nên có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước (1).

Từ năm 1986, tình hình thế giới có nhiều biến động, sự sụp đổ của một loạt các nước Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu (1989 – 1991) và Liên Xô đã ảnh hưởng rất lớn trong việc xây dựng đường lối ổn định và phát triển đất nước của Đảng ta. Để thực hiện chiến lược đổi mới, Nghị quyết Trung ương các khoá VII, VIII và IX tiếp tục đẩy mạnh và triển khai định hướng “mở cửa”, giao lưu hội nhập với khu vực và thế giới để phá triển đất nước. Trải qua hơn 15 năm thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế, nước ta đã phát triển ổn định, công cuộc đổi mới đã thu được thành tựu to lớn.

Nghị quyết Trung ương 4 (1/1993), tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo: Lần đầu tiên có một hội nghị Ban Chấp hành Trung ương bàn và ra nghị quyết một số chính sách về con người. Trong đó có nghị quyết “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo” (2)

Những công nhân lao động hợp tác tại Liên Xô (cũ) năm 1983 (ảnh tư liệu).
Những công nhân lao động hợp tác tại Liên Xô (cũ) năm 1983 (ảnh tư liệu).

Đổi mới và tác động đến nguồn nhân lực

Tháng 12/1986, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Luồng gió đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI nhanh chóng được quán triệt triển khai, trong đó đã làm thay đổi sâu sắc các mặt hoạt động công tác giáo dục.

Từ sau Đại hội VI của Đảng, Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình thực hiện đổi mới theo hướng đồng bộ, toàn diện; Thực hiện phương hướng chung về phát triển công tác đào tạo nghề, phát động nhiều phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, làm đồ dùng dạy học…có những biện pháp tích cực nhằm mở rộng qui mô đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

Bên cạnh việc tăng thêm ngành nghề, đã nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Hầu hết giáo viên lý thuyết của trường đều được học tập và thực tập tại các nước xã hội chủ nghĩa như: Liên Xô, CHDC Đức, Bungary… Năm 1990, đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên Nhà trường có 75 người. Trong đó, số giáo viên có 40 đồng chí; trong đó: 6 đồng chí trình độ đại học, 4 đồng chí có trình độ cao đẳng, 4 đồng chí có trình độ trung cấp, số còn lại 26 đồng chí là công nhân kỹ thuật bậc cao, một số người có trình độ ngoại ngữ, tin học A, B…

Thời gian này, Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình đứng chân ở 2 địa điểm: Tại xã Quảng Lạc, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và xây dựng địa điểm mới tại thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, nằm bên cạnh Quốc lộ 1A rất thuận tiện cho sự đi lại của cán bộ giáo viên và học sinh, thuận lợi cho xe máy học tập và thực tập sản xuất.

Số ngành nghề đào tạo của Trường tăng từ 3 lên 5 nghề: Đào tạo lái xe ô tô, thời gian 18 tháng bậc 1/3; Đào tạo lái máy xúc, đào thời gian 24 tháng, bậc 3/7; Lái máy ủi, cạp, đào tạo 24 tháng, bậc 3/7; Sửa chữa ô tô, xe máy, đào tạo 24 tháng, bậc 3/7. Trung học nghề, thời gian đào tạo 3 năm: Sửa chữa ô tô xe máy; Lái máy xúc, đào. Số lượng học sinh tuyển một khoá ở mức 1.000 học sinh và có mặt thường xuyên trong trường là 2.000 học sinh (3).

Đặc điểm đào tạo nghề giai đoạn 1975 – 1990 là gắn liền với sản xuất và nhiệm vụ kinh tế – chính trị: học viên sau khi tốt nghiệp được phân công về nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, nông trường, lâm trường; phương thức đào tạo kết hợp “học đi đôi với hành”: bên cạnh giờ học lý thuyết, học viên dành phần lớn thời gian tại xưởng sản xuất, công trình thực tế; ngành nghề đào tạo tập trung: cơ khí chế tạo, điện – điện tử, xây dựng, nông – lâm nghiệp, giao thông vận tải, thủy sản; đào tạo theo cơ chế bao cấp: học viên được Nhà nước cấp học bổng, bao cấp sinh hoạt, ra trường được phân công công việc. Quy mô còn hạn chế, nhưng bảo đảm “học xong có việc làm”; và kỷ luật tập thể cao: học viên rèn luyện trong môi trường lao động kỷ luật, gắn bó với tập thể, ý thức trách nhiệm xã hội.

Quá trình đổi mới đã tác động tích cực đến nguồn nhân lực Việt Nam (ảnh tư liệu - Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại cuối năm 1986).
Quá trình đổi mới đã tác động tích cực đến nguồn nhân lực Việt Nam (ảnh tư liệu – Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại cuối năm 1986).

Một điển hình về phát triển và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đổi mới không thể không nhắc đến là ngành than Việt Nam.

Theo chia sẻ của ông Nguyễn Mạnh Tường, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Than Quảng Ninh: Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới, thay thế chế độ bao cấp bằng nền kinh tế thị trường. Ngành than luôn chờ đợi cơ hội này, nhưng khi nó xuất hiện lại không đủ tiềm lực để đón nhận. Trước nhất là nguồn tài chính thiếu hụt trầm trọng. Cầm cự sản xuất, ổn định việc làm và đồng lương cho thợ mỏ trong điều kiện mọi tiêu chuẩn: lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm đều không còn bao cấp, trở thành gánh nặng cực kỳ nan giải. Áp lực của đời sống chung đã đẻ ra vô vàn hệ lụy. Tình trạng khai thác, kinh doanh than trái phép tàn phá môi trường, xâm hại tài nguyên và lũng đoạn trật tự xã hội là những vấn nạn nhức nhối ở vùng mỏ. Đây không phải là câu chuyện của một ngày.

Trên thực tế, nó đã kéo dài gần một thập kỷ. Năm 1994, Tổng Công ty Than Việt Nam (TVN) ra đời. Việc làm đầu tiên là tổ chức lại mô hình sản xuất – kinh doanh, lấy thị trường làm thước đo tiêu chuẩn. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu; huy động mọi nguồn vốn xúc tiến đầu tư, không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất; phối hợp với các địa phương thực hiện phân vùng, quy hoạch lại ranh giới mỏ để tăng cường quản lý, xóa sổ nạn than thổ phỉ. TVN cũng đã dành hẳn mức đầu tư cố định trên 1.000 tỷ đồng mỗi năm cho công tác trồng rừng bảo vệ môi trường; khép kín mạng lưới đường vận tải mỏ; thiết lập hoàn chỉnh hệ thống trạm xử lý nước thải trên tất cả các khu vực sản xuất trực thuộc ngành,…

“Như vậy là cuộc cách tân về mô hình quản lý vận hành và nền tảng công nghệ tiên tiến đã đưa TVN lên một lộ trình mới thật sự phong quang. Có một con số khá thú vị dù người ta ít nhắc tới, đó là trong khoảng thời gian sau năm 1995, TVN đã thu nạp trên 5.000 lao động vốn là “tàn binh than thổ phỉ”. Họ được kèm cặp, giáo dục, gửi vào các trường dạy nghề và khi tung vào thực tiễn đã trở thành một lớp thợ mỏ vững vàng thực thụ”, ông Nguyễn Mạnh Tường nhấn mạnh (4).

Thành quả nổi bật

Mặc dù khó khăn, GDNN giai đoạn này đã đạt được những kết quả quan trọng:

Một là, đào tạo đội ngũ công nhân, kỹ thuật viên: Đến năm 1986, cả nước có gần 300 trường công nhân kỹ thuật và trung học chuyên nghiệp, mỗi năm đào tạo khoảng 70.000 học viên, tập trung vào các ngành then chốt như cơ khí, điện, nông nghiệp (1). Trong giai đoạn 1986 – 2000, lực lượng lao động cả nước tiếp tục tăng nhanh, đánh dấu thời kỳ “dân số vàng”. Tỷ trọng công nhân kỹ thuật trong tổng lao động xã hội ngày càng mở rộng, tạo nền tảng để chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao năng suất (6).

Hai là, cung cấp nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp non trẻ: Lực lượng công nhân kỹ thuật trở thành trụ cột trong sản xuất công nghiệp, xây dựng, nông – lâm nghiệp, giao thông vận tải. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực: nếu cuối thập niên 1980, lao động nông, lâm, ngư nghiệp còn chiếm hơn 70% thì đến năm 2000 đã giảm xuống khoảng 65%, trong khi lao động công nghiệp – xây dựng và dịch vụ tăng lên. Đây là bước tiến quan trọng, phản ánh sự chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường (6).

Ba là, đặt nền tảng cho công cuộc Đổi mới: GDNN thời bao cấp đã tạo ra một thế hệ công nhân có tay nghề cơ bản, đủ khả năng tiếp nhận công nghệ mới sau 1986. Trong giai đoạn 1990 – 2000, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ bắt đầu tăng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đặc biệt, năm 2000, Việt Nam hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, nâng cao trình độ văn hóa cơ bản cho lực lượng lao động. Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng được cải thiện, từ 0,561 năm 1985 lên 0,682 năm 2000, đưa Việt Nam vượt lên nhóm nước có mức phát triển trung bình (6).

PGS.TS. Mạc Văn Tiến, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và Nghề công tác xã hội, cho biết, những năm cuối thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, mặc dù kinh tế đất nước còn bao cấp, GDNN vẫn duy trì đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật cơ bản. Đây chính là nền móng để đến khi bước vào công cuộc Đổi mới, chúng ta có một lực lượng lao động đủ sức tiếp nhận công nghệ, đáp ứng bước đầu cho quá trình công nghiệp hóa (5).

Những thành quả về đào tạo nghề giai đoạn này đã đặt nền móng cho sự phát triển bùng nổ của giáo dục nghề nghiệp trong thế kỷ 21.
Những thành quả về đào tạo nghề giai đoạn này đã đặt nền móng cho sự phát triển bùng nổ của giáo dục nghề nghiệp trong thế kỷ 21.

Ông Nguyễn Văn Thọ, nguyên công nhân Nhà máy Cơ khí Hà Nội, kể: “Hồi đó chúng tôi học nghề trong nhà máy, ban ngày vừa làm vừa học, tối đến lại ôn lý thuyết. Không có nhiều thiết bị hiện đại, nhưng ai cũng kiên trì. Sau khi ra trường, chúng tôi được phân công về các nhà máy lớn, trực tiếp tham gia lắp ráp, sửa chữa thiết bị. Đó là niềm tự hào lớn của thế hệ công nhân thời bao cấp”.

Bà Phạm Thị Hòa, nguyên học viên Trường Trung học Kỹ thuật Nông nghiệp Hà Nam, chia sẻ: “Chúng tôi học kỹ thuật nông cơ trong điều kiện thiếu thốn, nhưng nhờ vậy mà có thể sửa chữa máy cày, máy bơm phục vụ đồng ruộng. Nông dân khi ấy rất cần những người thợ như chúng tôi”.

Những câu chuyện như vậy phản ánh tinh thần “học để làm, học để xây dựng Tổ quốc” của thế hệ công nhân thời kỳ bao cấp.

Năm 1986: Cả nước có gần 300 trường công nhân kỹ thuật và trung học chuyên nghiệp; 70.000 học viên/năm được đào tạo ở các ngành cơ khí, điện, xây dựng, nông nghiệp; Công nhân kỹ thuật chiếm khoảng 12% tổng số lao động xã hội, là lực lượng nòng cốt trong công nghiệp và xây dựng (1).

Giai đoạn 1986 – 1999 đã hình thành một đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề cơ bản, kỷ luật lao động và tinh thần trách nhiệm cao. Dù mô hình GDNN còn nặng tính bao cấp, thiếu sự linh hoạt, nhưng những gì đạt được đã trở thành nền móng vững chắc cho công cuộc đổi mới sau này.

Từ đội ngũ công nhân được đào tạo trong giai đoạn này, nhiều người đã trở thành cán bộ quản lý, kỹ sư, chuyên gia ở các ngành then chốt, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những thập niên sau.

Đây là thời kỳ bước ngoặt của GDNN Việt Nam – từ mô hình đào tạo theo kế hoạch hóa tập trung sang mô hình linh hoạt, thị trường định hướng, đặt nền móng cho sự phát triển bùng nổ của giáo dục nghề nghiệp trong thế kỷ 21. Những bài học về tự chủ, gắn kết doanh nghiệp và nhanh nhạy với xu hướng kinh tế vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.

———

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ LĐTB&XH (2020). Dạy nghề – 45 năm phát triển. Truy cập tại: https://mcc.molisa.gov.vn/day-nghe-45-nam-phat-trien/88/32
  2. Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2020). Giai đoạn 1986–1996: Ý nghĩa cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới. Truy cập tại: https://cogioi.edu.vn/giai-on-1986-1996-y-mnh-ci-cach-giao-dc-nang-cao-cht-lng-ap-ng-yeu-cu-i-mi/
  3. Báo Đầu tư (2017). Ngành than và câu chuyện nửa đời nhìn lại. Truy cập tại: https://baodautu.vn/nganh-than-va-cau-chuyen-nua-doi-nhin-lai-d201724.html
  4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1987). Niên giám thống kê giáo dục Việt Nam 1986. Hà Nội: NXB Giáo dục.
  5. Nghề nghiệp & Cuộc sống (2025). Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và Nghề công tác xã hội tăng tốc chuyển mình, vững bước trong giai đoạn đổi mới. Truy cập tại: https://nghenghiepcuocsong.vn/hiep-hoi-giao-duc-nghe-nghiep-va-nghe-nghiep-xa-hoi-tang-toc-chuyen-minh-vung-buoc-trong-giai-doan-doi-moi
  6. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2016). Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Truy cập tại: https://app.vass.gov.vn/hnht/pages/danh-sach-hoi-nghi-hoi-thao.aspx?ItemId=97&EventId=15

Nhất Nam

Đón đọc

Bài 4: Tích cực chuyển mình, khẳng định vị thế quốc gia, hội nhập quốc tế (2000 – 2025)

Bài cuối: Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2030, tầm nhìn 2045