Chuyển đổi số (CĐS) đang trở thành xu thế tất yếu và là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (GDNN), CĐS đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường lao động số hóa. Tuy nhiên, thực tế triển khai CĐS tại các cơ sở GDNN còn gặp nhiều khó khăn về hạ tầng, nhân lực, học liệu số và chính sách. Qua ghi nhận ý kiến từ các trường và đại diện Hiệp hội GDNN tại TP.HCM, bức tranh CĐS trong GDNN hiện rõ cả kỳ vọng lẫn những vấn đề cấp thiết cần sớm có giải pháp đồng bộ.
Nhiều nỗ lực nhưng còn phân tán
Nhìn nhận thực tiễn triển khai chuyển đổi số tại cơ sở, ông Phạm Quang Huy – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp cho biết, nhà trường đã tích cực triển khai CĐS trên nhiều lĩnh vực như tuyển sinh trực tuyến, dạy học qua hệ thống LMS, quản lý đào tạo, hội nghị trực tuyến và quản lý hành chính số. Nhờ ứng dụng nền tảng trực tuyến và phần mềm quản lý, việc tuyển sinh, giảng dạy, tra cứu thời khóa biểu, điểm số và tổ chức họp hành trở nên thuận tiện hơn.
Ông Phạm Quang Huy – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp cho biết, quá trình CĐS tại trường vẫn gặp không ít trở ngại cần sự quan tâm hỗ trợ và kết nối từ cấp Bộ đến địa phương và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, theo ông Huy, quá trình CĐS tại trường vẫn gặp không ít trở ngại. “Hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) chưa đồng bộ, thiết bị phòng học, phòng thực hành còn yếu, năng lực số của giảng viên chưa cao, học liệu số thiếu hụt và thực hành online với các nghề kỹ thuật rất khó khả thi”, ông Huy chia sẻ. Đặc biệt, với nguồn kinh phí hạn chế, nhiều trường vùng sâu, vùng xa khó có điều kiện đầu tư thiết bị, phần mềm bản quyền và hệ thống mô phỏng hiện đại.
Ông Cao Văn Thích – Hiệu trưởng Trường Trung cấp nghề Dân tộc Nội trú tỉnh An Giang cho rằng, kinh phí hạn hẹp khiến trường này chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ giảng dạy theo hướng hiện đại hóa.
Tại Trường Trung cấp nghề Dân tộc Nội trú tỉnh An Giang, ông Cao Văn Thích – Hiệu trưởng trường này cũng ghi nhận thực tế tương tự tại cơ sở mình. Ông Thích cho biết, từ năm 2023, trường đã đầu tư hệ thống mạng internet phủ sóng toàn bộ, phần mềm quản lý đào tạo phục vụ lập kế hoạch, nhập điểm, thống kê, xét tốt nghiệp… Tuy vậy, với kinh phí chỉ khoảng 1 tỷ đồng, việc đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ giảng dạy theo hướng hiện đại hóa.
“Việc áp dụng phần mềm mô phỏng và thiết bị công nghệ số còn hạn chế do kinh phí thấp, cơ sở vật chất thiếu đồng bộ. Học liệu số hiện mới chủ yếu là tài liệu chữ, hình ảnh, chưa có nhiều video tương tác hay mô phỏng kỹ thuật chuyên ngành. Năng lực số của một bộ phận giáo viên còn yếu, nhất là với các phần mềm mô phỏng, LMS hay AI”, ông Thích đánh giá.
Ông Tô Xuân Giao – Phó trưởng Văn phòng đại diện Hiệp hội GDNN & CTXH Việt Nam tại TP.HCM nhận định, chuyển đổi số trong GDNN hiện còn thiếu sự đồng bộ về quy trình, chuẩn mực.
Đưa ra cái nhìn tổng thể về chuyển đổi số tại các cơ sở GDNN, ông Tô Xuân Giao – Phó trưởng Văn phòng đại diện Hiệp hội GDNN & CTXH Việt Nam tại TP.HCM nhận định, chuyển đổi số trong GDNN hiện còn thiếu sự đồng bộ về quy trình, chuẩn mực. “Hiện nay, các trường và cá nhân đang chuyển đổi bằng nhiều cách khác nhau, nhưng đa phần chưa tuân theo quy trình chuẩn hoặc đi từ ngoài vào trong mà lại từ trong ra, gây khó khăn cho việc tích hợp và kết nối liên thông dữ liệu, học liệu”, ông Giao nhấn mạnh.
Theo ông Giao, nhiều cơ sở GDNN chưa xây dựng được bộ tiêu chuẩn năng lực số phù hợp với từng ngành nghề, cũng như chưa tích hợp CĐS vào chương trình đào tạo chính khóa, dẫn đến triển khai manh mún, thiếu chiều sâu, khó thích ứng với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ 4.0.
Cần đồng bộ từ chính sách đến cơ sở
Từ thực trạng trên, ông Phạm Quang Huy đề xuất Bộ GD&ĐT cần sớm ban hành chiến lược chuyển đổi số quốc gia dành riêng cho GDNN, trong đó xây dựng khung tiêu chuẩn về nội dung số, hệ thống LMS, phần mềm mô phỏng dùng chung để các trường triển khai thống nhất, tránh manh mún. Đồng thời, cần tăng ngân sách đầu tư hạ tầng mạng, thiết bị, phần mềm bản quyền cho các trường vùng khó khăn như Đồng Tháp.
Nhiều ý kiến đề xuất đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho giảng viên, viên chức quản lý, tập trung vào thiết kế bài giảng số, quản lý học tập qua LMS và ứng dụng phần mềm mô phỏng, AI trong giảng dạy.
Ông Huy cũng nhấn mạnh, phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho giảng viên, viên chức quản lý, chú trọng vào thiết kế bài giảng số, quản lý học tập trên nền tảng LMS, sử dụng phần mềm mô phỏng và AI trong giảng dạy. Ngoài ra, địa phương cần đảm bảo hạ tầng công nghệ đồng bộ, hỗ trợ máy chủ, lưu trữ, nền tảng đám mây và khuyến khích liên kết với doanh nghiệp CNTT để bảo trì, nâng cấp hệ thống.
Đồng quan điểm, ông Cao Văn Thích đề xuất Bộ và Sở GD&ĐT hỗ trợ phát triển nguồn học liệu số dùng chung, đặc biệt là video thực hành, mô phỏng kỹ thuật ngành nghề. “Các chương trình bồi dưỡng năng lực số cho giáo viên, tập trung vào dạy học trực tuyến, thiết kế học liệu, ứng dụng AI và phần mềm mô phỏng là rất cần thiết,” ông Thích nhấn mạnh.
Ông Thích cũng mong muốn Hiệp hội GDNN và CTXH Việt Nam cùng các tổ chức xã hội tổ chức thêm các diễn đàn, hội thảo chia sẻ kinh nghiệm giữa các trường và doanh nghiệp về CĐS, tạo điều kiện cho các trường nghề tiếp cận nhanh với công nghệ mới, học liệu số và mô hình thực tiễn đào tạo.
Ở cấp độ Hiệp hội, ông Tô Xuân Giao kiến nghị, Nhà nước cần xây dựng Khung năng lực số quốc gia áp dụng cho 5 cấp: Chính phủ số, giáo dục số, nền kinh tế số, doanh nghiệp số và công dân số. “Bộ GD&ĐT phải ban hành chương trình đào tạo Khung năng lực số, sát hạch cấp chứng chỉ năng lực số theo từng ngành, từng trình độ”, ông Giao nói.
Ngoài ra, theo ông Giao, Hiệp hội GDNN & CTXH Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, hội thảo, tập huấn, hỗ trợ các trường tiếp cận tài nguyên giáo dục mở, công nghệ AI, trí tuệ nhân tạo trong dạy nghề. “Cần tăng cường hợp tác doanh nghiệp trong CĐS GDNN, như FPT, Viettel, VNPT tham gia tài trợ LMS, phòng lab mô phỏng thực ảo, AI chatbot tuyển sinh và đào tạo”, ông Giao nhấn mạnh.
Để tháo gỡ những khó khăn về chuyển đổi số nêu trên cần sự vào cuộc mạnh mẽ từ Bộ GD&ĐT, địa phương, doanh nghiệp và Hiệp hội nghề nghiệp.
Có thể thấy, CĐS trong giáo dục nghề nghiệp Việt Nam tuy đã có bước chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn không ít khó khăn, đặc biệt ở các trường vùng sâu, vùng xa. Việc thiếu đồng bộ về hạ tầng, nhân lực, học liệu số và cơ chế chính sách khiến cho quá trình triển khai gặp nhiều rào cản.
Thiết nghĩ, để tháo gỡ những khó khăn nêu trên cần sự vào cuộc mạnh mẽ từ Bộ GD&ĐT, địa phương, doanh nghiệp và Hiệp hội nghề nghiệp. Khi đó, GDNN mới có thể đào tạo ra nguồn nhân lực kỹ thuật số chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp và nền kinh tế số. Như ông Tô Xuân Giao nhấn mạnh: “Nếu không nhanh chóng chuyển đổi số đồng bộ, GDNN Việt Nam sẽ tụt hậu trong bối cảnh công nghiệp 4.0 đang thay đổi từng ngày”./.
Thanh Quang