21/04/2025 12:26:00

Giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao trong bối cảnh đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia: Thách thức và những vấn đề đặt ra

TS Vũ Xuân Hùng – Bộ Nội vụ

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia, là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh thế giới mới với những tác động mạnh mẽ của khoa học công nghệ, chuyển đổi số, với những đột phá như công nghệ nano, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo (AI), ,… AI đang dần thay thế người lao động ở nhiều công việc, mang lại những lợi ích đáng kể trong việc tối ưu hóa và cải thiện hiệu quả hoạt động của con người[1]. Nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành nhu cầu bức thiết cho sự phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, vì vậy đào tạo nhân lực chất lượng cao nói chung, nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (GDNN) càng trở lên quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, đào tạo kỹ năng chung cho người lao động đã khó, đào tạo chất lượng cao trong lĩnh vực GDNN trước bối cảnh mới càng có nhiều khó khăn hơn, đòi hỏi phải có những giải pháp mạnh mẽ và đồng bộ hơn nữa.

Đoàn Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khảo sát, đánh giá thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao Tại Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội
  1. Bối cảnh, thách thức và những vấn đề đặt ra cho giáo dục nghề nghiệp Việt Nam

Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng với quốc tế, thực hiện ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, RCEP, EVFTA….), thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị toàn cầu phát triển theo hướng gia tăng ở các khâu có hàm lượng tri thức cao, dẫn tới nhu cầu gia tăng lao động chất lượng cao để có được năng suất cao, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Theo Tổng cục Thống kê[2], mức năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Tính theo PPP 2017, năm 2020 năng suất lao động của Việt Nam đạt 18,4 nghìn USD, chỉ bằng 11,3% mức năng suất của Xin-ga-po; 33,1% của Ma-lai-xi-a; 59,1% của Thái Lan; 77% của In-đô-nê-xi-a và bằng 86,5% của Phi-li-pin; chỉ cao hơn Cam-pu-chia (gấp 2,4 lần); My-an-ma (1,6 lần); Lào (gấp 1,2 lần).

Cách mạng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số với nhiều đột phá về công nghệ, nhất là công nghệ AI dẫn tới chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhiều nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là sự xuất hiện của nhiều nghề nghiệp mới trong các lĩnh vực ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, Internet di động, công nghệ điện toán đám mây, robot trong công nghiệp và gia đình, thực tế ảo, nông nghiệp công nghệ cao.v.v…

SV Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội được thực hành trên thiết bị hiện đại do Funa AI tài trợ
SV Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội được thực hành trên thiết bị hiện đại do Funa AI tài trợ

Theo Báo cáo Tương lai việc làm năm 2023 của WEF[1], dự đoán sẽ có 69 triệu công việc mới được tạo ra, 83 triệu công việc sẽ biến mất trong 5 năm tới bởi tác động của công nghệ. Xu hướng việc làm xanh cũng như các lĩnh vực như phân tích dữ liệu lớn, mã hóa và an ninh mạng, công nghệ nông nghiệp, nền tảng số và ứng dụng số, thương mại điện tử và giao dịch số, AI đều dự kiến ​​sẽ gây ra sự thay đổi lớn trên thị trường lao động.

Đào tạo theo hướng ứng dụng công nghệ, làm chủ công nghệ cũng là xu thế tất yếu của các chương trình đào tạo nghề tiên tiến. Tuy nhiên, đây là thách thức lớn với Việt Nam khi hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) còn chậm chuyển đổi, chưa bắt kịp với sự thay đổi về công nghệ và ứng dụng công nghệ chưa nói tới việc đổi mới, sáng tạo công nghệ.

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 Đảng đã xác định đất nước ta sẽ trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển vào năm 2045, đồng thời nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược. Bên cạnh đó, thị trường lao động trong mô hình tăng trưởng mới với quy mô đến năm 2025 gần 66 triệu người, trong đó 75% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ sẽ là thị trường lao động hiện đại với nhiều ngành nghề mới, nhiều phân lớp thị trường nhân lực, đòi hỏi những tiêu chuẩn lao động mới, kỹ năng mới. Đây là cơ hội, nhưng cũng là yêu cầu hệ thống GDNN phải có đủ năng lực để đáp ứng các nhu cầu đa dạng về số lượng, chất lượng nhân lực của thị trường lao động trong nước và quốc tế.

Đào tạo theo hướng ứng dụng công nghệ, làm chủ công nghệ cũng là xu thế tất yếu của các chương trình đào tạo nghề tiên tiến. Tuy nhiên, đây là thách thức lớn với Việt Nam khi hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) còn chậm chuyển đổi, chưa bắt kịp với sự thay đổi về công nghệ và ứng dụng công nghệ chưa nói tới việc đổi mới, sáng tạo công nghệ.

Học sinh THCS trải nghiệm điều khiển robot tự động tại Trường CĐ Kỹ thuật Công nghệ Bà Rịa - Vũng Tàu
Học sinh THCS trải nghiệm điều khiển robot tự động tại Trường CĐ Kỹ thuật Công nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng có riêng một giải pháp về phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia để góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế[1].

Thị trường lao động trong mô hình tăng trưởng mới với quy mô đến năm 2025 gần 66 triệu người, trong đó 75% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ sẽ là thị trường lao động hiện đại với nhiều ngành nghề mới, nhiều phân lớp thị trường nhân lực, đòi hỏi những tiêu chuẩn lao động mới, kỹ năng mới. Đây là cơ hội, nhưng cũng là yêu cầu hệ thống GDNN phải có đủ năng lực để đáp ứng các nhu cầu đa dạng về số lượng, chất lượng nhân lực của thị trường lao động trong nước và quốc tế.

Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 4/5/2023 của Ban Bí thư[1] về đổi mới GDNN cũng đề ra nhiều giải pháp phát triển GDNN nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng trong thời gian tới, trong đó nhấn mạnh đến việc đào tạo kỹ năng số cho người học và thường xuyên cập nhật, đào tạo lại cho lực lượng lao động nhằm nâng cao khả năng thích ứng với yêu cầu đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…

Khó khăn: Nhiểu chính sách nhưng thiếu nguồn lực, nhiều chủ trương định hướng nhưng thiếu hành động

Bên cạnh những thách thức nêu trên, đào tạo chất lượng cao trong GDNN cũng đang gặp không ít khó khăn.

Mặc dù được xác định là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước nhưng nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực GDNN lại chưa được quan tâm đúng mức. Nhận thức về vai trò của nhân lực GDNN chất lượng cao ở một số cấp lãnh đạo, nhà quản lý, doanh nghiệp nhìn chung còn hạn chế; còn phổ biến tình trạng có chủ trương, định hướng nhưng thiếu hành động, có chính sách nhưng thiếu nguồn lực thực hiện, việc tổ chức thực hiện chưa được quan tâm đầy đủ, chưa đầu tư xứng tầm. Trong các dự án/công trình đầu tư thường chỉ quan tâm đến đất đai, vốn, công nghệ, mà ít quan tâm đến nhân lực, nguồn lực đầu vào quan trọng nhất.

Nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực chất lượng cao của thị trường lao động là rất lớn, tuy nhiên việc đáp ứng còn hạn hẹp. Việc tuyển sinh nói chung, tuyển sinh, đào tạo các chương trình chất lượng cao rất khó khăn, nhất là ở những ngành nghề kỹ thuật cao, nặng nhọc độc hại, năng khiếu;

Cơ cấu trình độ đào tạo còn bất cập, chủ yếu vẫn là trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25%; chất lượng đào tạo theo các tiêu chuẩn lao động chất lượng cao của nhiều trường khó đạt được: còn yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm, kỹ năng khởi nghiệp. Việc triển khai đào tạo chất lượng cao (phát triển nghề trọng điểm, trường nghề chất lượng cao và thí điểm đào tạo theo chương trình chuyển giao từ nước ngoài …) còn chậm theo tiến độ, nhiều khó khăn chưa được tháo gỡ. Theo Báo cáo PCI cấp tỉnh năm 2022[1] cho thấy: có tới 54% doanh nghiệp FDI đánh giá chất lượng lao động chỉ đáp ứng nhu cầu ở mức trung bình, chỉ có 9% doanh nghiệp FDI hoàn toàn hài lòng với chất lượng nguồn nhân lực.

Nhận thức về vai trò của nhân lực GDNN chất lượng cao ở một số cấp lãnh đạo, nhà quản lý, doanh nghiệp nhìn chung còn hạn chế; còn phổ biến tình trạng có chủ trương, định hướng nhưng thiếu hành động, có chính sách nhưng thiếu nguồn lực thực hiện, việc tổ chức thực hiện chưa được quan tâm đầy đủ, chưa đầu tư xứng tầm.

2. Một số kết quả về đào tạo nhân lực chất lượng cao

Để định hướng phát triển nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực GDNN, ngày 6/6/2014, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao; ngày 4/5/2023, Ban Bí thư tiếp tục ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng GDNN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đồng thời với chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật[1], văn bản chỉ đạo, điều hành[2] và cơ chế chính sách phát triển đào tạo chất lượng cao, điển hình như: Đề án chuyển giao các bộ chương trình từ nước ngoài giai đoạn 2012 – 2015”[3] (Đề án 371);  Đề án “Phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020”[4] (Đề án 761); Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm

Theo đó, từ năm 2014 đến nay việc đào tạo nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực GDNN bước đầu đã có những kết quả được ghi nhận. Công tác quy hoạch mạng lưới trường chất lượng cao, nghề trọng điểm đã thực hiện, bước đầu hình thành một số cơ sở GDNN và chương trình đào tạo chất lượng cao theo chuẩn quốc tế (Úc, Đức, Pháp, Mỹ…) thông qua các chương trình chuyển giao từ nước ngoài; các điều kiện bảo đảm cho đào tạo được tăng cường; chất lượng và hiệu quả đào tạo chất lượng cao có bước chuyển biến, lao động Việt Nam từng bước tham gia và đảm nhận nhiều vị trí công việc trước đây do chuyên gia nước ngoài thực hiện.

3. Giải pháp đào tạo chất lượng cao trong GDNN thời gian tới

Để tháo gỡ những khó khăn, vượt qua thách thức hiện nay, việc đào tạo chất lượng cao trong GDNN cần tập trung vào các giải pháp sau[2]:

Thứ nhất, tăng cường nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực GDNN cho sự phát triển đất nước trước bối cảnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Cần nhận thức nguồn nhân lực chất lượng cao là tài nguyên quý giá nhất, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, nhân lực chính thực hiện phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây là nội dung quan trọng có ý nghĩa hàng đầu bảo đảm cho việc phát triển nhân lực chất lượng cao được diễn ra thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm để đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển GDNN nói chung và đào tạo chất lượng cao nói riêng theo hướng bao trùm, đồng bộ trên nhiều phương diện như đào tạo khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, môi trường làm việc, việc làm, thu nhập, an sinh xã hội, các điều kiện nhà ở, định cư…. ; không chỉ tập trung vào người dạy, người học, cơ sở GDNN mà cần quan tâm đến doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Thứ ba, phát triển đội ngũ nhà giáo và các chương trình đào tạo chất lượng cao gắn với các ngành nghề mới, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao; ngành, nghề đáp ứng yêu cầu phát triển của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cuộc CMCN4.0 và xu hướng việc làm trong tương lai, tập trung vào các lĩnh vực như Công nghệ thông tin; điện tử viễn thông; điện tử; tự động hóa; Công nghiệp chế biến; Nông nghiệp công nghệ cao, Dịch vụ vận tải, logistics; Du lịch dịch vụ (khách sạn, nhà hàng…); Năng lượng mới và năng lượng tái tạo v.v….; đẩy nhanh hoàn thành việc thí điểm và nhân rộng các chương trình chuyển giao từ các nước tiên tiến trên thế giới.

Thứ tư, thực hiện đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số toàn diện trong nội tại lĩnh vực GDNN, đào tạo nhân lực chất lương cao từ việc quản lý, tổ chức đào tạo (số hóa toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước, quản lý nhà trường) đến đổi mới nội dung, chương trình đào tạo (số hóa toàn bộ nội dung chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo); ứng dụng mạnh mẽ AI và các công nghệ số vào quá trình quản lý, giảng dạy; phát triển các cơ sở GDNN số, trường nghề thông minh.v.v…

Thứ năm, nghiên cứu, bổ sung các trình độ đào tạo bậc cao theo khung trình độ quốc tế để hình thành hệ thống đào tạo thực hành chất lượng cao, trình độ cao; đa dạng hóa, đổi mới căn bản phương thức tổ chức đào tạo theo tiếp cận phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; tập trung vào các kỹ năng cốt lõi của người lao động tương lai, hình thành thế hệ lao động mới có phẩm chất đạo đức tốt, kỹ năng nghề cao, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và luôn có hoài bão, khát vọng vươn lên làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại;

Thứ sáu, tăng ngân sách cho phát triển đào tạo chất lượng cao, các ngành nghề trọng điểm, mũi nhọn; nhanh chóng chuyển từ việc cấp phát ngân sách sang đặt hàng; đẩy mạnh xã hội hoá, hợp tác công tư nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đào tạo chất lượng cao và ngân sách nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong các nguồn lực này.

– Thứ bảy, tăng cường gắn kết GDNN với thị trường lao động và việc làm bền vững; thu hút doanh nghiệp tham gia đào tạo chất lượng cao, đẩy mạnh đào tạo chất lượng cao tại doanh nghiệp để mỗi doanh nghiệp là một nhà trường thực hành; chú trọng đạo tạo, đào tạo lại cập nhật kỹ năng, nhất là kỹ năng số, công nghệ mới cho người lao động. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động số để gắn kết cung cầu lao động./.

TS Vũ Xuân Hùng 

Bộ Nội vụ

Tài liệu tham khảo: 
[1] Anca Antoaneta Vărzaru, Claudiu George Bocean  (2024), Digital Transformation and Innovation: The Influence of Digital Technologies on Turnover from Innovation Activities and Types of Innovation
[2] Tổng cục Thống kê (2021), Báo cáo “Năng suất của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 – Thực trạng và giải pháp”
[3] WEF (2023), Future of Jobs Report 2023
[4] Ban Chấp hành Trung ương (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
[5] Ban Chấp hành Trung ương (2023), Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 4/5/2023 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
[6] VCCI, USAID (2022), PCI 2022 Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam
[7] Thông tư số 21/2018/TT-BLĐTBXH ngày 30/11/2018 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Quy định tiêu chí xác định chương trình chất lượng cao trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
[8] Gồm có 45 văn bản chỉ đạo điều hành, bao gồm 5 nghị quyết của Chính phủ, 9 văn bản chỉ đạo điều hành của Thủ tướng Chính phủ, 26 văn bản chỉ đạo, điều hành của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
[9] Quyết định số 371/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 và được sửa đổi, bổ sung bới Quyết định số 2047/QĐ-TTg ngày 11/11/2014 và Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 26/10/2015;
[10] Quyết định số 761/QĐ-TTg ngày 23/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020”
[11] Quyết định số 2239/QĐ-TTg ngày 30/12/2021 của TTg phê duyệt Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2023, tầm nhìn đến 2045
[12] Vũ Xuân Hùng (2024), Nhu cầu bức thiết cho sự phát triển, Báo Nhân dân cuối tuần. https://nhandan.vn/nhu-cau-buc-thiet-cho-su-phat-trien-post805511.html