Nhân lực khoa học và công nghệ (KH&CN) có vai trò to lớn trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ KH&CN, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN4.0), tạo ra sự bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Những năm qua Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực KH&CN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Thời gian tới, cần tiếp tục nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và toàn xã hội về sự cần thiết phát triển nguồn nhân lực KH&CN, đánh giá đúng thực trạng, đề xuất và thực hiện một cách đồng bộ, nhất quán những giải pháp trong thực tiễn.
- Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực KH&CN cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nguồn nhân lực KH&CN
Điều 3 Luật KH&CN năm 2022 xác định: “Hoạt động KH&CN là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ KH&CN, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển KH&CN”1. Nguồn nhân lực KH&CN là toàn bộ những người có trình độ từ cao đẳng trở lên (cao đẳng chuyên nghiệp hoặc cao đẳng nghề) hoạt động trong lĩnh vực KH&CN.
Nguồn nhân lực KH&CN của quốc gia bao gồm: (1) Viên chức làm công tác nghiên cứu khoa học (giữ các chức danh khoa học như trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp), làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập (học viện, viện nghiên cứu, trường đại học…); (2) Viên chức giữ các chức danh công nghệ (kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư chính, kỹ sư cao cấp) làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh nghiệp KH&CN; (3) Cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về KH&CN ở cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện có tham gia hoặc chỉ đạo công việc nghiên cứu phục vụ cho hoạch định các quyết sách, quyết định quan trọng về KH&CN trong thẩm quyền của mình. (4) Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài làm việc trong lĩnh vực KH&CN tại Việt Nam. (5) Các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội yêu thích khoa học kỹ thuật, có sáng kiến cải tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống2.
Các chức danh nghiên cứu KH&CN được quy định trong Luật KH&CN năm 2022. Theo đó, các chức danh nghiên cứu khoa học (NCKH), bao gồm trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp. Các chức danh công nghệ, bao gồm kỹ thuật viên và tương đương, kỹ sư và tương đương, kỹ sư chính và tương đương, kỹ sư cao cấp và tương đương. Nhân lực KH&CN thực hiện nhiệm vụ đóng góp về trí tuệ, tài năng vào sự nghiệp phát triển KH&CN, phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH), bảo đảm quốc phòng, an ninh; thực hiện hợp đồng KH&CN đã ký kết; thực hiện nhiệm vụ KH&CN do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giao; đăng ký, lưu giữ và giao kết quả NCKH và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước; giữ bí mật nhà nước về KH&CN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội3.
Phát triển nguồn nhân lực KH&CN
Phát triển nguồn nhân lực KH&CN là tổng thể các hoạt động giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng người lao động trong lĩnh vực KH&CN, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động KH&CN. Theo đó, nhân lực KH&CN được xây dựng, định hướng tư duy; được đào tạo, bồi dưỡng để nắm vững nghiệp vụ, nâng cao trình độ và kỹ năng, phát triển cả về phẩm chất và năng lực; đồng thời được sử dụng, phát huy đúng tiềm năng, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Phát triển nguồn nhân lực KH&CN bao gồm phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Cả ba mặt gắn chặt với nhau, trong đó yếu tố chất lượng nguồn nhân lực KH&CN là quan trọng nhất.
Căn cứ vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia, Bộ KH&CN xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực KH&CN trên cơ sở đề xuất của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan khác của Nhà nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) chủ trì, phối hợp với Bộ KH&CN, bộ quản lý chuyên ngành tổ chức đào tạo trình độ đại học, sau đại học; phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài để bổ sung nguồn nhân lực KH&CN, bảo đảm cơ cấu ngành, lĩnh vực và vùng miền; đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho lĩnh vực KH&CN ưu tiên, trọng điểm. Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về KH&CN cho đội ngũ nhân lực KH&CN trên phạm vi cả nước. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tự đào tạo, tham gia, tài trợ cho việc đào tạo, đào tạo lại nhân lực, bồi dưỡng nhân tài KH&CN.
- Thực trạng phát triển nguồn nhân lực KH&CN cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Về số lượng, kết quả tổng hợp điều tra của Bộ KH&CN năm 2019 cho thấy, cả nước có 185.436 người tham gia các hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&PT), tăng gần 7,4% (12.753 người) so với năm 2017) và tăng 10,54% (17.690 người) so với năm 20154, trong đó số lượng cán bộ nghiên cứu tăng cao nhất, chiếm 80,94%. Sau 4 năm (2015-2019), số lượng nhân lực NC&PT tăng 10,5% (từ 167.746 lên 185.436 người); cơ cấu tương đối ổn định với đội ngũ nghiên cứu viên khoảng 80%, kỹ thuật viên khoảng 6-7%, còn lại là cán bộ hỗ trợ5. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ thạc sỹ, tiến sĩ tăng từ 50% năm 2015 lên 57,3% năm 2019, trong đó, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ tiến sĩ tăng từ 11% lên 15%6. Năm 2020, số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên có khoảng 1,5 triệu người, trong đó số giáo sư, phó giáo sư khoảng 2.000 người, hơn 14.000 tiến sĩ, hơn 11.000 thạc sỹ. Số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực KH&CN hơn 34.000 người, hơn 42.000 cán bộ giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và hàng vạn cán bộ KH&CN làm việc trong các ngành, lĩnh vực kinh tế khác7.
Về cán bộ nghiên cứu quy đổi tương đương toàn thời gian, theo số liệu từ điều tra của Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2020), tỷ lệ quy đổi cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian (FTE) thì tổng số cán bộ nghiên cứu quy đổi theo FTE của Việt Nam năm 2019 là 72.991 người, tăng 6.038 người so với năm 2017. Bình quân Việt Nam có 7,6 cán bộ nghiên cứu FTE/1 vạn dân, hay 1,27 FTE/1 nghìn lao động. So sánh trong khu vực Đông Nam Á về số cán bộ nghiên cứu/1 vạn dân thì Việt Nam đứng thứ 4, sau Singapore (69,2), Malaysia (23,6) và Thái Lan (12,1)8. Hiện nay nhiều chuyên gia KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài đang cộng tác, cố vấn, tư vấn cho các bộ, ngành, địa phương. Số trí thức, chuyên gia kiều bào về nước khởi nghiệp hoặc làm việc tại các tập đoàn, công ty tư nhân trong nước, đặc biệt là các công ty của kiều bào có xu hướng tăng mạnh.
Về chất lượng, nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực KH&CN không ngừng được nâng cao, trong đó nhiều nhà khoa học có uy tín, được thế giới công nhận. Chính vì vậy, sau hơn 35 năm đổi mới, đội ngũ nhân lực KH&CN đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân lực KH&CN đã góp phần nâng cao năng suất lao động, gia tăng giá trị của sản phẩm. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015)9. Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020 (vượt mục tiêu 35%). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 202010.
Nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) đã đóng góp vào xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, trực tiếp nhất là dự thảo các Văn kiện Đại hội Đảng; thực hiện các chương trình, nhiệm vụ khoa học lớn như: đề án Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam; xây dựng bộ Địa chí quốc gia Việt Nam. Đối với khoa học cơ bản, nhân lực KH&CN đã đóng góp nhiều thành tựu thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố nghiên cứu quốc tế. Số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Web of Science (WoS) tăng thêm hơn 3,5 lần, số bài báo trong danh mục SCOPUS (một cơ sở dữ liệu thư mục chứa bản tóm tắt và trích dẫn các bài báo khoa học) của các cơ sở giáo dục đại học tăng thêm hơn 4 lần sau 4 năm (2017-2021). Sản phẩm của các đề tài, dự án, chương trình KH&CN cấp Bộ tăng đáng kể, trung bình 25%/năm11. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.
Trong bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên tiến được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí. Việt Nam đã nằm trong top 3 nước ASEAN và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vaccine trong phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao. Trong quốc phòng và an ninh quốc gia, nhân lực KH&CN đã góp phần thiết kế, chế tạo mới và cải tiến nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh trên không gian mạng. 85% vũ khí trang bị kỹ thuật của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng có nguồn gốc từ kết quả nghiên cứu trong nước, đáp ứng các yêu cầu tác chiến12.
Nguyên nhân ưu điểm
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đã quan tâm và đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực KH&CN nói riêng bằng việc xây dựng các mục tiêu, chiến lược phát triển; chính sách phát triển nguồn nhân lực tương đối toàn diện, đảm bảo tính thống nhất.
Thứ hai, công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KH&CN đã được quan tâm đầu tư, chất lượng đào tạo được nâng cao. Mục tiêu, chương trình, phương pháp đào tạo không ngừng được đổi mới. Các cơ sở đào tạo xây dựng cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện tối đa để cán bộ, giảng viên, sinh viên tham gia NCKH.
Thứ ba, đội ngũ nhân lực KH&CN bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng; tâm huyết với nghề nghiệp, tích cực trong tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ tư, chính sách thúc đẩy thu hút và dịch chuyển nhân lực hai chiều giữa khu vực công và tư thực hiện tương đối tốt. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí và tạo thuận lợi về thủ tục xuất/nhập cảnh, visa, giấy phép lao động, … để thu hút nguồn nhân lực KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia người nước ngoài đến Việt Nam làm việc.
Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực KH&CN
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nguồn nhân lực KH&CN mặc dù có tăng về số lượng và phát triển về chất lượng, nhưng vẫn còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển KT-XH; còn thiếu cán bộ khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực công nghệ trình độ cao. Cơ cấu nhân lực KH&CN có sự phân bổ không không cân xứng. Tỷ lệ phân bố lực lượng cán bộ nghiên cứu theo lĩnh vực nghiên cứu không thay đổi nhiều trong giai đoạn 2015 – 2019, với khoảng 1/3 cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực KH&CN (35,37% năm 2019), tương tự là số cán bộ nghiên cứu KHXH&NV (32,6% năm 2019). Khoảng 1/3 tổng số cán bộ nghiên cứu còn lại gồm khoa học y, dược chiếm gần 14%, khoa học tự nhiên và khoa học nông nghiệp mỗi lĩnh vực khoảng 9%. Số nhân lực NC&PT trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ có 13.226 người, chiếm 9% trong tổng số nhân lực NC&PT, mặc dù Việt Nam vẫn đang là một nước nông nghiệp13.
Về đào tạo nguồn nhân lực KH&CN, các chuẩn mực về xây dựng chuẩn đầu ra và phát triển chương trình đào tạo còn nhiều bất cập. Cơ sở vật chất còn thiếu hụt, chưa đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo đại học – nơi đang có số lượng nhân lực KH&CN tập trung nhiều nhất. Hầu hết các trường đại học cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu so với quy mô đào tạo, so với chuẩn mực chung của thế giới. Một số cơ sở giáo dục đại học xuống cấp về cơ sở hạ tầng, thiếu trang thiết bị thực hành; thiếu diện tích mặt bằng, không gian phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy, phải thuê mượn, phân tán ở nhiều địa điểm khác nhau.
Trong các trường đại học hiện nay, chỉ có một tỷ lệ không lớn giảng viên thường xuyên tham gia vào hoạt động NCKH, trong khi đa số nhân lực NC&PT hiện đang làm việc tại đây chiếm tới 51,99%14. Phân tích số liệu trong hơn 10 năm gần đây cho thấy, tỷ trọng công bố quốc tế của các cơ sở giáo dục đại học mặc dù tăng nhanh, đặc biệt trong những năm gần đây, nhưng so sánh với một số nước trong khu vực, số công bố của Việt Nam còn thấp; số sáng chế, giải pháp hữu ích của các trường đại học còn chưa cao.
Chất lượng sinh viên tốt nghiệp các ngành KH&CN chưa đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Hiện nay, cả nước có trên 300 trường đại học, cao đẳng đào tạo các chuyên ngành công nghệ cao về: CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu và gần 200 trường đại học, cao đẳng đào tạo các ngành công nghệ cao trình độ cao đẳng. Nhưng số sinh viên ra trường có thể làm được việc trong các lĩnh vực được đào tạo tỷ lệ không cao. Nhiều sinh viên khối ngành KH&CN khi ra trường có việc làm không muốn học lên trình độ cao hơn như thạc sĩ, tiến sĩ vì nhiều lý do khác nhau. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH15.
Hệ thống chính sách dành cho phát triển nguồn nhân lực KH&CN còn nhiều hạn chế đặc biệt là chính sách liên quan đến lương, điều kiện hoạt động nghiên cứu và quản trị nhân sự KH&CN,… Hiệu quả của chính sách thu hút nhân lực KH&CN chất lượng cao ở lại tổ chức KH&CN làm việc cũng như thu hút tri thức Việt kiều về làm việc còn thấp. Chi ngân sách cho KH&CN, trong đó có đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KH&CN còn thấp. Từ năm 2017 đến nay, chi ngân sách dành cho KH&CN đã giảm dần và năm thấp nhất 0,82% trong khi quy định phải đảm bảo từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách16.
Nguyên nhân hạn chế
Một là, nhận thức về phát triển nguồn nhân lực KH&CN còn chưa cao, chưa thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực, trong đó có chức năng phát triển nguồn nhân lực KH&CN.
Hai là, môi trường thể chế, cơ chế chính sách phát triển nhân lực KH&CN chưa được hoàn thiện, chưa có cơ chế, chính sách đột phá để nhân lực KH&CN trở thành nguồn lực cốt yếu của sự phát triển đất nước.
Ba là, do sự thiếu hụt về nguồn lực và bất cập trong cơ chế tài chính. Theo số liệu từ Bộ Tài chính, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học năm 2020 là 16.703 tỷ đồng, tương ứng 0,96% tổng chi ngân sách nhà nước. Phần chi cho giáo dục đại học chỉ chiếm 4,62% và chiếm tỷ trọng 0,27% GDP, thấp nhiều lần so với các nước trong khu vực và trên thế giới (chỉ bằng 1/5 đến 1/6 tỷ trọng trung bình của các nước OECD và một số nước khu vực ASEAN)17.
Bốn là, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN của các cơ sở đào tạo đại học còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; việc đào tạo lại, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của các cơ sở sử dụng nhân lực KH&CN còn sơ sài, thiếu bài bản, chủ yếu đào tạo theo kế hoạch hàng năm, không có chương trình rõ ràng. Kinh phí dành cho bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ít nên việc lựa chọn chương trình đào tạo cũng rất hạn chế.
- Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực KHCN cho đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước thời gian tới
3.1. Tăng cường nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực KH&CN cho đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của mọi cấp, mọi ngành và mọi người dân về vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung và phương hướng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực KH&CN của đất nước. Các cấp ủy đảng, chính quyền và mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy vai trò và trách nhiệm của mình trong phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Đối với mỗi cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực KH&CN, cần nhận thức đúng vị trí, vai trò, trọng trách của mình đối với sự phát triển của nước nhà trong thời kỳ mới. Phải coi đây là vinh dự, bổn phận đối với đất nước để từ đó không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
3.2. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN cho đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
Việc ban hành và thực thi chính sách cần bảo đảm tính phù hợp, khả thi, đồng bộ với các chính sách trong hệ thống của hoạt động KH&CN. Do đó, để xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách hiệu lực và hiệu quả, cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ về quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Phát triển đồng bộ cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN; bảo đảm các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhân lực KH&CN; ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu KH&CN.
3.3. Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực KH&CN gắn với Chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia và định hướng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giai đoạn mới.
Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần khắc phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN, nhất là nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao ở nước ta hiện nay. Do vậy, xuất phát từ dự báo nhu cầu, từ chiến lược phát triển KT-XH, trên cơ sở chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia và định hướng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giai đoạn mới, các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, địa phương cần xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực KH&CN.
3.4. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN gắn nhu cầu phát triển của xã hội và yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đổi mới chương trình đào tạo nhân lực KH&CN trong các cơ sở đào tạo hướng tới đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Xác định đúng khả năng và nhu cầu đào tạo, tăng cường chất lượng công tác lập kế hoạch, dự báo thường xuyên và cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã hội, nhất là nhu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp, địa phương nhằm điều tiết quy mô, cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo cho phù hợp. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp, hình thức dạy học, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên. Bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác đào tạo nguồn nhân lực KH&CN. Thực hiện tốt việc liên kết đào tạo giữa cơ sở đào tạo với tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp sử dụng nhân lực KH&CN. Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và triển khai tại các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KH&CN.
3.5. Tạo môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất cho đội ngũ nhân lực hoạt động trong lĩnh vực KH&CN.
Xây dựng cơ chế chính sách để nhân lực KH&CN được hưởng thành quả từ lao động sáng tạo, tương xứng với giá trị đóng góp. Tạo lập môi trường, điều kiện tốt cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và sáng chế KH&CN. Đảm bảo các điều kiện cần thiết về nguồn nhân lực cũng như về pháp lý, chính trị, tổ chức để các nhà khoa học tài năng có thể sáng tạo. Đánh giá khách quan, đúng đắn, công bằng về năng lực và cống hiến thông qua hệ thống đánh giá (văn bằng, học vị, khả năng và thành tích hoạt động, giá trị sáng tạo); tôn vinh cống hiến bằng những danh hiệu vinh dự, xứng đáng và các phần thưởng cao quý của Nhà nước. Đảm bảo chế độ tiền lương, các điều kiện sinh hoạt như nhà ở, phương tiện đi lại.
3.6. Thu hút và giải quyết chính sách đối với cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài nhằm phát triển nguồn nhân lực KH&CN cho đẩy mạnh CNH, HĐH.
Khuyến khích cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam, đảm bảo đầy đủ các quyền lợi trong thời gian làm việc tại Việt Nam theo luật định và được hưởng ưu đãi trong việc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức KH&CN; chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp, xét công nhận, bổ nhiệm chức danh NCKH, chức danh công nghệ; hưởng lương chuyên gia theo quy định của Chính phủ; các ưu đãi về xuất nhập cảnh, cư trú, nhà ở và ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. Vinh danh, khen thưởng, tặng giải thưởng về KH&CN của Việt Nam cho các cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia là người nước ngoài có cống hiến lớn đối với sự nghiệp phát triển KH&CN của Việt Nam.
Như vậy, CNH, HĐH trên nền tảng của tiến bộ KHCN và đổi mới sáng tạo là chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển của nước ta. Phát triển nguồn nhân lực KH&CN được Đảng, Nhà nước ta xem là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển KT-XH và bảo vệ Tổ quốc. Để có được nguồn nhân lực KH&CN đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đòi hỏi phải phát huy trách nhiệm chính trị, sự nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo hệ thống các giải pháp trong thực tiễn, nhằm sớm thực hiện các mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn mới.
Tài liệu tham khảo
1, Luật Khoa học và công nghệ, Số 13/VBHN-VPQH, ngày 08-7-2022, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Van-ban-hop-nhat-13-VBHN-VPQH-2022-Luat-khoa-hoc-va-cong-nghe-556070.aspx
2 Hồ Thị Hà, Nguyễn Thành Nhân, Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ Đồng bằng sông Cửu Long, https://sdmd2045.ctu.edu.vn/van-de-noi-bat/giao-duc/178-phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc-cong-nghe-vung-dong-bang-song-cuu-long
4 Bộ Khoa học và Công nghệ: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2020, Nxb Khoa học Công nghệ, Hà Nội, 2021, tr.73.
5 Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục thông tin KH&CN Quốc gia (2020), Sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
6,8 Bộ Khoa học và Công nghệ, Chuyên đề: Phát triển KH&CN thúc đẩy đổi mới sáng tạo (Tài liệu phục vụ Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cho đội ngũ lãnh đạo, cán bộ của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam).
7 Đinh Viết Phương, Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới, https://vietq.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc-va-cong-nghe-o-viet-nam-thich-ung-voi-boi-canh-moi-d202586.html, ngày 29-7-2022
9 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Năng suất lao động giai đoạn 2016 – 2020 tăng 5,8%/năm, https://www.molisa.gov.vn/baiviet/224265?tintucID=224265, ngày 20-10-2020
10 Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo qua góc nhìn của các nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp, kỳ 3, https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/20128/ky-3—khoa-hoc–cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-qua-goc-nhin-cua-cac-nha-quan-ly–nha-khoa-hoc-va-doanh-nghiep.aspx, ngày 20-5-2021
11 Nghiêm Huê, Số lượng bài báo khoa học đăng trên tạp chí quốc tế tăng 3,5 lần sau 4 năm, https://tienphong.vn/so-luong-bai-bao-khoa-hoc-dang-tren-tap-chi-quoc-te-tang-35-lan-sau-4-nam-post1458865.tpo, ngày 04-8-2022
12 Đỗ Văn Cương, Phát triển nhân lực khoa học và công nghệ: Những vấn đề cần quan tâm hiện nay, https://sokhcn.langson.gov.vn/node/15078, ngày 31 -10 – 2022
13 Nguyễn Thành Trung, Hoàn thiện chính sách đối với trí thức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ: Thực trạng và một số giải pháp trọng tâm, http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/hoan-thien-chinh-sach-doi-voi-tri-thuc-trong-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe-thuc-trang-va-mot-so-giai-phap-trong-tam-53243.html, ngày 31-5-2023
14 Quý Hiên, Hầu hết trường đại học Việt Nam có cơ sở vật chất ở mức dưới “chuẩn mực”, https://thanhnien.vn/hau-het-truong-dai-hoc-viet-nam-co-co-so-vat-chat-o-muc-duoi-chuan-muc-185230306194500324.htm, ngày 06-3-2023
15 Tường San, Vì sao nhiều người học khối ngành khoa học công nghệ, kỹ thuật không muốn học lên tiến sĩ? https://giaoduc.net.vn/vi-sao-nhieu-nguoi-hoc-khoi-nganh-khcn-ky-thuat-khong-muon-hoc-len-tien-si-post235239.gd, ngày 22-5-2023
16 VOV.VN, Chi ngân sách cho khoa học công nghệ hiện đang thấp đáng báo động, https://vov.vn/xa-hoi/chi-ngan-sach-cho-khoa-hoc-cong-nghe-hien-dang-thap-dang-bao-dong-post1025059.vov, ngày 07-6-2023
17 Hồng Lĩnh, Năm 2022, Ngân sách Trung ương tăng chi cho khoa học công nghệ, https://kinhtevadubao.vn/nam-2022-ngan-sach-trung-uong-tang-chi-cho-khoa-hoc-cong-nghe-20857.html, ngày 03-01-2022
TS. Trần Thị Ngọc Minh – Khoa KTCT, Học viện Báo chí và Tuyên truyền