Kinh tế số đang thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu với con số ấn tượng, trong đó dẫn đầu là các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ, Anh… Kinh tế số Việt Nam nằm trong top đầu khu vực Asean về tốc độ phát triển và đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á vào năm 2025.
Phát triển kinh tế số Việt Nam và thế giới
Theo Báo cáo kinh tế số của Diễn đàn thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD), năm 2019 kinh tế số ICT/VT đóng góp khoảng 4,5% GDP toàn cầu, kinh tế số internet/nền tảng đóng góp 15,5% GDP toàn cầu. Con số tương ứng tại nước Mỹ là 6,9% và 21,6% GDP và tại Trung Quốc là 6% và 30% GDP.
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, và nắm bắt xu thế này, một số nước nhận ra cơ hội đã sớm ban hành các chiến lược, chương trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số của mình, điển hình như: Anh (Digital Economy strategy), Canada (Canada’s Digital Economy Strategy), Australia (National Digital Economy Strategy), Nigeria (National Digital Economy Policy and Strategy), Kenya (Digital Economy strategy), Đài Loan (kế hoạch phát triển kinh tế sáng tạo DIGI 2025), Singapore (Digital Economy Framework for Action), Thái Lan (Thailand Digital Economy and Society Development Plan).
Tại Việt Nam, kinh tế số luôn nằm trong Top đầu của ASEAN về tốc độ phát triển. Theo báo cáo “e-Conomy SEA 2021” do Tập đoàn Google, Bain (Mỹ) và Temasek (Singapore) phối hợp công bố, nền kinh tế internet của Việt Nam năm 2021 đạt giá trị 21 tỉ USD, đóng góp hơn 5% GDP của đất nước, cao gấp 7 lần năm 2015, và dự kiến đạt 57 tỉ USD năm 2025, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á.
Tốc độ tăng trưởng năm 2021 đạt 31%, và dự kiến sẽ tăng trung bình khoảng 29% một năm đến năm 2025. Báo cáo gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy bức tranh chi tiết hơn. Năm 2021, ước tính kinh tế số Việt Nam đạt khoảng 163 tỷ USD, chiếm khoảng 8,2% GDP cả nước, trong đó cấu phần kinh tế số Công nghệ thông tin và Viễn thông đạt 126 tỷ USD, chiếm 5,5% GDP, kinh tế số Internet/nền tảng đạt 14 tỷ USD, chiếm 1% GDP và kinh tế số ngành/lĩnh vực đạt khoảng 23 tỷ USD, chiếm 1,7% GDP.
Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%. Đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.
Sau 02 năm thực hiện Chương trình chuyển đổi đổi số Quốc gia,. Đến nay, hầu hết các Bộ, Ngành, Địa phương đã có chương trình/kế hoạch chuyển đổi số.. Nhận thức về chuyển đổi số đã, và đang được nâng cao và phổ biết một cách rõ rệt trong tất cả các cơ quan, chính quyền các cấp, cũng như hầu hết các thành phần của nền kinh tế.
Các cơ sở dữ liệu quốc gia đang hình thành và phát triển nhanh chóng như: Dữ liệu dân cư, Dữ liệu doanh nghiệp, Dữ liệu tài chính, Dữ liệu đất đai, Dữ liệu về bảo hiểm… cùng nhiều cơ sở dữ liệu cấp độ khác đang được hình thành. Chuyển đổi số đã và đang tạo ra tài nguyên mới là dữ liệu, trở thành nguồn lực cho kinh tế số phát triển, mở ra không gian phát triển mới cho đất nước.
Chấu Á hợp sức phát triển kinh tế số
Tuy nhiên, có thể thấy, không gian phát triển mới của Việt Nam đang bị phân tán, phát triển cục bộ, thiếu sự quy hoạch, kết hợp một cách bài bản. Dữ liệu phân tán, và chưa có được mức độ mở phù hợp, nguồn nhân lực, tài lực cho chuyển đổi số cũng chưa được tập chung, thậm chí các nền tảng, giải pháp chuyển đổi số của các doanh nghiệp cũng đang được đầu tư, phát triển một các tràn lan, chưa có sự quy hoạch, chưa có sự kết hợp một cách bài bản, có định hướng. Những điều này đang hạn chế qua trình tăng tốc chuyển đổi số, làm chậm sự phát triển của nền kinh tế số.
Ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 nhằm cụ thể hóa những mục tiêu phát triển.
Nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số tại Việt Nam, Diễn đàn Cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam – Châu Á 2022 (Vietnam – Asia DX Summit 2022) lấy chủ đề “Hợp lực chuyển đổi số để phát triển kinh tế số”. Hơn 150 diễn giả sẽ tập trung bàn bàn thảo tại 18 phiên hội nghị bao gồm 01 phiên khai mạc và 18 phiên chuyên đề,được thiết kế theo 04 trục:
- Chính phủ số: 03 phiên Hợp lực CĐS cho Bộ ngành; Hợp lực CĐS cho các Địa phương; và Kinh nghiệm CĐS tại các quốc gia Châu Á.
- Kinh tế số:08 phiên dành cho 08 ngành trọng điểm ưu tiên chuyển đổi số bao gồm Tài chính – Ngân hàng; Giao thông vận tải – Logistics; Y tế; Giáo dục; Du lịch; Thương mại; Bất động sản; Nông nghiệp
- Doanh nghiệp số: Doanh nghiệp SMEs, Doanh nghiệp Sản xuất, Nền tảng số – Cloud computing; Nhân lực số, Startup số và Startup-Pitching.
- Chuyển đổi số tại Châu Á: với 2 phiên và chia sẻ thông tin của 11 quốc gia và nền kinh tế trong khu vực về các chương trình, kinh nghiệm, điển hình thành công trong chuyển đổi số.
Việt Nam cần nắm bắt thời cơ chuyển đổi số
Ông Nguyễn Trọng Đường – Phó Cục trưởng Cục An toàn thông tin, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp – Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết trên thế giới hiện có 14 nước ban hành chiến lược CĐS quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đối với chương trình CĐS quốc gia, Việt Nam có cách tiếp cận riêng, thận trọng từng bước nhưng không bỏ qua cơ hội.
Chương trình CĐS quốc gia lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, toàn dân và toàn diện. Trong đó, điểm đột phá trong phát triển kinh tế số và xã hội số là đưa hoạt động của người dân, doanh nghiệp lên môi trường số bằng các nền tảng số. Và để làm được điều đó, Việt Nam sẽ phổ cập thật nhanh các nền tảng số quốc gia. Trong đó, có 35 nền tảng sẽ ưu tiên triển khai trước năm 2022, 54 nền tảng số sẽ triển khai đến 2025.
Cho rằng, trong chương trình chuyển đổi số của quốc gia hay bộ, ngành, doanh nghiệp thì cần có chiến lược, quy trình nghiệp vụ, dữ liệu, ngân sách, công nghệ và con người nhưng theo ông Hà Thái Bảo – Phó tổng Giám đốc VNPT – IT thì việc thực thi triển khai các kế hoạch CĐS ở các bộ, ngành, doanh nghiệp hiện vẫn còn chậm và hiệu quả chưa cao, tốc độ triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia/ngành (CSDLQG) chậm, thiếu nền tảng chia sẻ, cộng tác, triển khai hạ tầng công nghệ còn cục bộ, phân mảnh, nguồn lực chuyên trách cho CĐS tại các bộ ngành, địa phương còn thiếu.
Do đó, theo ông Hà Thái Bảo, để không bỏ lỡ thời cơ CĐS chúng ta cần hoàn thiện môi trường pháp lý để chuyển sang sử dụng dữ liệu số, giao dịch số; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các CSDLQG; thúc đẩy xây dựng các CSDL ngành, lĩnh vực quan trọng (Giao thông, NN&PTNT, Xây dựng, Tư pháp, Giáo dục,…); chuẩn hóa, hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn để kết nối, liên thống, chia sẻ dữ liệu; đưa ra các quy định cụ thể về việc bắt buộc chia sẻ và mở dữ liệu. Ngoài ra, các bộ, ngành, địa phương cần xây dựng lộ trình cụ thể để từng bước hình thành nền tảng dữ liệu; kho dữ liệu, ứng dụng bài toán xử lý dữ liệu lớn.
Lấy bài học thành quả CĐS từ doanh nghiệp mình là FPT, ông Lê Vũ Minh – Giám đốc khối tư vấn Chiến lược và Đổi mới sáng tạo FPT Digital cho biết, sau 3 năm triển khai CĐS nội bộ doanh nghiệp đã mang lại tổng lợi ích 500 tỷ đồng.
Ông Minh cũng cho rằng, thời điểm thích hợp nhất để CĐS chính là hôm nay, không nên chậm trễ vì thực tế cho thấy 80% doanh nghiệp trên thế giới phục hồi được sau đại dịch Covid-19 chính là nhờ vào CĐS. Trong khi đó, Việt Nam có sự ủng hộ từ Nhà nước với các chủ trương, chính sách; có sự thuận lợi của thị trường với tỷ lệ dân số trưởng thành có điện thoại thông minh và kết nối internet là70,91% và sự sẵn sàng của công nghệ với nhiều nền tảng đang được đẩy mạnh và chứng minh hiệu quả như AI, blockchain, IoT,…
Tính đến đầu tháng 5/2022, Việt Nam có 63/63 địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo Chuyển đổi số, 55/63 địa phương ban hành nghị quyết về chuyển đổi số và 59/63 địa phương đã ban hành chương trình/ đề án hoặc kế hoạch chuyển đổi số trong giai đoạn 5 năm. Vừa qua Chính phủ đã ban hành Quyết định 505/QĐ-TTg lấy ngày 10 tháng 10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia, cho thấy tầm quan trọng của công cuộc chuyển đổi số quốc gia. Chuyển đổi số ở nhiều tỉnh thành đã đem lại những thành quả bước đầu đáng khích lệ trong phát triển và đem lại sự hài lòng cho người dân và doanh nghiệp.
Quỳnh Trang