Nhiều chuyển biến tích cực là đánh giá tổng quan được Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà nhận định về kết quả thực hiện chính sách lao động, người có công và xã hội 9 tháng đầu năm 2023.
Tỉ lệ lao động qua đào tạo, có việc làm tăng
Theo báo cáo, tính chung trong 9 tháng năm 2023, tỉ lệ lao động qua đào tạo khoảng 67,7%; tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ đạt 26,8%. Ước thực hiện trong năm 2023, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 68%. Trong đó, tỉ lệ lao động qua đào tạo, có bằng cấp đạt 27- 27, 5%.
Trong 9 tháng, tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,55% và con số này ước sẽ tăng lên khoảng 2,76%; tỉ lệ hộ nghèo đa chiều cuối năm 2023 ước giảm khoảng 1,1% so với năm 2022.
Đặc biệt, trong 9 tháng đầu năm, tổng số lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài là 111.507 lao động (38.816 lao động nữ) đạt 101,37% kế hoạch năm 2023 và bằng 108,23% so với cùng thời điểm năm 2022.
Đánh giá tổng quan, thứ trưởng Nguyễn Thị Hà khẳng định thị trường lao động đang chuyển biến mạnh mẽ, tiếp tục được phục hồi kể từ sau đại dịch covid-19. Lực lượng lao động, số người có việc làm quý III/2023 tiếp tục tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tình trạng hàng loạt người lao động buộc nghỉ giãn việc, thôi việc, mất việc ở các doanh nghiệp diễn ra từ quý IV năm 2022, đến nay đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, lao động phi chính thức chiếm tỉ trọng lớn ( khoảng 3/5 tổng số lao động có việc làm của cả nước).
Những giải pháp thúc đẩy thị trường lao động trong thời gian tới, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030; triển khai thực hiện Nghị quyết 06/NQ-CP ngày 10/1/2023 của Chính phủ về phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập quốc tế, song hành thực hiện các giải pháp, chương trình về đề án lao động- việc làm.
Thứ trưởng nhấn mạnh các giải pháp kết nối cung- cầu lao động, trong đó vai trò của các đơn vị kết nối thông tin về lao động- việc làm giữa các tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào với các tỉnh, thành phố kinh tế trọng điểm có ý nghĩa quan trọng, nhằm đáp ứng hài hòa cung- cầu thị trường lao động.
Đẩy mạnh và tăng cường kết nối thông tin giữa các thị trường lao động, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số hiện nay là cần thiết. Đây cũng là một trong những yếu tố hàng đầu góp phần tạo ra hiệu quả trong hoạt động kết nối cung- cầu, sự kết nối giữa các trung tâm việc làm và người lao động thường xuyên được cập nhật, giúp người lao động có được vị trí việc làm phù hợp.
Công tác trẻ em, người cao tuổi, bảo trợ xã hội được tăng cường đẩy mạnh
Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cũng nhấn mạnh, trong năm 2023 công tác tuyên truyền về bảo vệ, chăm sóc trẻ em có sự quan tâm nhiều hơn hẳn trước đây. Riệng hoạt động huy động nguồn lực xã hội, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong 8 tháng năm 2023, Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam đã vận động được trên 17.8 tỷ đồng; thực hiện hỗ trợ cho 48.221 lượt trẻ em kinh phí trên 26 tỷ đồng. Ước thực hiện năm 2023, tỷ lệ xã, phường đạt tiêu chuẩn xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em đạt 57%; tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên tổng dân số trẻ em giảm xuống còn 6,7%, đạt mục tiêu.
Trong 9 tháng 2023, tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111) đã tiếp nhận 238.500 cuộc gọi đến ( giảm 85.953 cuộc so với cùng kỳ năm 2022). Trong đó, 15.991 cuộc gọi tư vấn ( giảm 7.085 cuộc so với năm 2022), 845 ca can thiệp hỗ trợ ( giảm 455 ca so với cùng kỳ năm 2022).
Về bảo trợ xã hội, trong 9 tháng năm 2023 các cơ quan bảo trợ xã hội đã thực hiện chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng cho 3.336.267 đối tượng; 354.340 hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng hàng tháng. Ngân sách nhà nước chi trợ giúp xã hội hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ đạt trên 26 nghìn tỷ đồng/ năm. Nhiều tỉnh, thành phố có điều kiện chủ động nâng mức chuẩn trợ cấp, mức trung bình khoảng 400.000 đồng/ tháng, cho gần 700.000 đối tượng, với kinh phí 3.514 tỷ đồng/ năm.
Việc phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội, đến nay cả nước đã thành lập 425 cơ sở ( 195 cơ sở công lập và 230 cơ sở ngoài công lập), nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ trợ giúp xã hội của đối tượng cần trợ giúp xã hội. Ước thực hiện năm 2023, 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; 100% người dân bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói được trợ giúp đột xuất kịp thời, không người dân nào bị đói; trên 90% người khuyết tậ có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng kịp thời.
Về công tác chăm sóc người cao tuổi, tính đến tháng 8 năm 2023, người cao tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế đạt 95%; 32% người cao tuổi được lập hồ sơ quản lý theo dõi sức khỏe ban đầu; hàng năm tổ chức chúc thọ, mừng thọ cho hơn 1 triệu người cao tuổi; có ít nhất 95% tỉnh, thành phố có CLB liên thế hệ tự giúp nhau của người cao tuổi. Cả nước có 9.575/11.161 xã, phường, thị trấn thành lập được quỹ chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi.
Với những kết quả trong nhiều lĩnh vực, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội bên cạnh những giải pháp phát triển thị trường lao động, đảm bảo việc làm, sinh kế bền vững. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sẽ tập trung xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, bảo đảm an sinh xã hội cho toàn dân, chú trọng phát triển y tế, giáo dục.
Bình Minh