Trong giai đoạn mới, cần có một chiến lược mới, đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh hội nhập và thích ứng được cuộc CMCN 4.0 – PGS.TS.Mạc Văn Tiến.
Dạy nghể ở nước ta đã có lịch sử phát triển gần nửa thế kỷ và có những đóng góp rất to lớn trong phát triển KT-XH của đất nước qua các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên phải đến năm 2011, lần đầu tiên ở Việt nam mới có Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011-2020.
Chiến lược dạy nghề đã làm cơ sở xây dựng các kế hoạch phát triển dạy nghề và các chương trình, dự án, bao gồm cả các chương trình, dự án hợp tác quốc tế. Qua đó chất lượng dạy nghề đã được nâng lên, từng bước đáp ứng được nhu cầu sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp và cung ứng cho thị trường lao động nhân lực qua đào tạo.
Đến nay, chiến lược dạy nghề đã hoàn thành sứ mạng lịch sử. Trong giai đoạn mới, cần có một chiến lược mới, đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của nền kinh tế đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập và thích ứng được cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư – Chiến lược phát triển GDNN.
Bài viết nhằm trao đổi suy nghĩ về cách tiếp cận, định hướng xây dựng chiến lược phát triển GDNNcho giai đoạn 2021-2030. Nội dung bài viết gồm ba phần (1) Tiếp cần xây dựng chiến lược phát triển GDNN; (2) Yêu cầu đặt ra đối với phát triển GDNN và xây dựng chiến lược phát triển, và (3). Quan điểm và Định hướng chiến lược phát triển GDNN.
Bài viết thể hiện quan điểm, suy nghĩ cá nhân, không thể hiện quan điểm của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào.
- Tiếp cận xây dựng chiến lược phát triển GDNN
- Khái niệm chiến lược
Hiện tại có nhiều cách “phát biểu” khác nhau về chiến lược, nguyên nhân cơ bản có sự khác nhau này là do có các hệ thống quan niệm khác nhau về tổ chức nói chung và các phương pháp tiếp cận khác nhau về chiến lược của tổ chức nói riêng.
Theo Johnson và Scholes, chiến lược được định nghĩa như sau: “Chiến lược là việc xác định định hướng và phạm vi hoạt động của một tổ chức/ ngành/ lĩnh vực trong dài hạn, ở đó tổ chức/ ngành/ lĩnh vực phải giành được lợi thế thông qua việc kết hợp các nguồn lực trong một môi trường nhiều thử thách, nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường và đáp ứng mong muốn của các tác nhân có liên quan đến tổ chức/ ngành/ lĩnh vực”.
Cách định nghĩa này áp dụng cho các doanh nghiệp, các tổ chức nhưng cũng có thể khái quát cho chiến lược phát triển một ngành, thậm chí chiến lược phát triển KT-XH của một quốc gia. Theo định nghĩa này, Đối với phát triển GDNN một quốc gia, chiến lược được hình thành để trả lời các câu hỏi sau :
- Định hướng phát triển GDNN sẽ như thế nào trong dài hạn? (10 năm định hướng tiếp theo)?.
- Những lĩnh vực nào sẽ được ưu tiên trong chu kỳ chiến lược?.
- Những cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới?.
- Nguồn lực nào (NNL, hạ tầng, công nghệ, tài chính …) cần thiết để tạo tận dụng/tạo ra lợi thế?.
- Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài tác động đến khả năng phát triển?
Theo Michael Porter (1996), “Chiến lược là việc tạo ra một sự hài hòa giữa các hoạt động của một công ty. Sự thành công của chiến lược chủ yếu dựa vào việc tiến hành tốt nhiều việc… và kết hợp chúng với nhau… cốt lõi của chiến lược là lựa chọn cái chưa được làm”.
Theo Quinn (1980),“Chiến lược là mô thức hay kế hoạch tích hợp các mục tiêu chính yếu, các chính sách, và chuỗi hành động vào một tổng thể được cố kết một cách chặt chẽ”
Theo nghĩa rộng, “chiến lược” bao gồm cả mục tiêu và hơn thế nữa việc xác định mục tiêu được xem là nhiệm vụ trước tiên của hoạch định một chiến lược. Đáng lưu ý là trong ba yếu tố “mục tiêu”, “con đường”, và “nguồn lực”, trong hàm ý của nhiểu tác giả, đều coi nguồn lực là yếu tố hạn chế và trong trường hợp đó, nhiệm vụ của “chiến lược” là phải tìm ra phương thức lựa chọn ưu tiên và sử dụng các nguồn lực làm sao để có thể đạt được mục tiêu cao nhất có thể. Chính đây là đòi hỏi phải đặt ra đối với việc phân tích và lựa chọn các phương án “chiến lược”. Xác định “ưu tiên” trở thành nội dung chính của bản “chiến lược”.
Như vậy, “Chiến lược” có thể được hiểu theo nghĩa rộng (bao gồm cả mục tiêu, con đường và nguồn lực để thực hiện mục tiêu) hoặc theo nghĩa hẹp, không bao hàm mục tiêu và chỉ giới hạn ở con đường và phương tiện để đạt các mục tiêu đã được xác định và coi như điều kiện biên.
Từ những cách tiếp cận chiến lược nêu trên, có thể nêu khái niệm chiến lược phát triển GDNN như sau: Chiến lược phát triển GDNN là việc xác định được định hướng phát triển GDNN của quôc gia trong một giai đoạn nhất định, trên cơ sở kết hợp một cách tổng thể các nguồn lực và đề ra các giải pháp, các bước đi để thực hiện mục tiêutrong bối cảnh hội nhập”.
- Sự cần thiết phải có chiến lược phát triển GDNN
Với cách tiếp cận khái niệm chiến lược nêu trên, có thể thấy chiến lược phát triển GDNN được coi là “sợi dây” xuyên suốt, làm cơ sở, làm định hướng cho các hoạt động có liên quan để thúc đẩy sự phát triển GDNN trong thời gian 10 năm tới.Vậy, “tại sao cần phải có chiến lược GDNN?” và “có chiến lược này để làm gì?
Để trả lời những câu hỏi trên, Mintzberg (1987) đã giải thích bốn lý do cơ bản giúp các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách hiểu rõ hơn vai trò của chiến lược đối với một đất nước, môt lĩnh vực, một ngành, một tổ chức nói chung và đối với một doanh nghiệp nói riêng. Theo Mintzberg, cần có chiến lược bởi vì chiến lược cho phép (i) xác lập định hướng dài hạn; (ii) tập trung nỗ lực vào việc thực hiện các nhiệm vụ để đạt được mục tiêu mong muốn; (iii) xác định phương thức tổ chức và hành động định hướng các mục tiêu đặt ra; và (iv) xây dựng tính vững chắc và phát triển hài hòa của đất nước, của ngành, lĩnh vực, tổ chức.
- Xác lập định hướng dài hạn
Để có cơ sở xây dựng và thực hiện các kế hoạch ( thường là 5 năm và cụ thể cho từng năm) để đạt được mục tiêu đặt, cần phải có “tầm nhìn xuyền suốt” cho cả thời kỳ.Như vậy vai trò cơ bản của chiến lược là xác định một hướng đi, một con đường để hướng tới các mục tiêu đã định. Nhiều nhà phân tích chiến lược cho rằng, nếu có chiến lược tốt, trong quá trình thực hiện chiến lược có thể vấp phải một số những sai sót nhất định hoặc thậm chí có điểm xuất phát ở một vị thế yếu vẫn có thể đạt được các mục tiêu đã định. Theo M. Porter, vấn đề cơ bản của chiến lược là “nghĩ cho sâu” và “nhìn cho thấu”. Điều này cũng có nghĩa, việc định hướng phát triển luôn là sự linh hoạt trong “khoảng” cho phép của “sợi dây” đã được xuyên suốt trong cả thời kỳ.
- Tập trung các nỗ lực vào thực hiện mục tiêu
Cần có chiến lược để tập trung các nỗ lực của quốc giavà tăng cường sự liên kết các hoạt động phát triển GDNN. Nếu không có chiến lược, hoạt động phát triển GDNN của quốc gia sẽ không có sự phối hợp đồng bộ từ trên xuống dưới, các hoạt động chỉ là sự riêng rẽ, không thể tạo ra sự “cộng hưởng” để đạt được mục tiêu. Chỉ thông qua hoạch định chiến lược, những vấn đề nêu trên sẽ được giải quyết một cách hiệu quả nhất, gắn kết được các cá nhân, cộng đồng và xã hội hướng tới mục tiêu chung của quốc gia.
- Xác định phương thức tổ chức
Các hoạt động phát triển GDNN của quốc gia là những hoạt động mang tính phối hợp cao, do vậy chiến lược là cần thiết để xác định cách thức tổ chức phối hợp các hoạt động này. Hơn thế nữa, chiến lược không chỉ nhằm định hướng sự hoạt động nêu trên vào các mục tiêu đã định mà còn phải hướng tới những sự phát triển tiếp theo, tạo ra những “giá trị” tương lai nguồn nhân lực của đất nước.
- Xây dựng tính vững chắc và sự phát triển hài hòa
Như đã nêu trên, chiến lược phát triển GDNN được coi như “sợi dây” xuyên suốt, là định hương trong một thời kỳ phát triển và như vậy các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển GDNN đều căn cứ vào các định hướng, các nội dung của chiến lược. Qua đó tập trung được nguồn lực, đồng thời tạo ra sự tính vững chắc, bền vững và phát triển hài hòa giữa các lĩnh vực và quốc gia.
Theo kinh nghiệm của các nước và thực tế ở Việt Nam cho thấy, việc xây dựng một chiến lược phát triển phù hợp sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn, có khả năng phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong, đồng thời tranh thủ các cơ hội và ứng phó kịp thời với các nguy cơ/ thách thức của môi trường bên ngoài..
- Các cách tiếp cận xây dựng chiến lược phát triển GDNN
Có nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau khi xây dựng chiến lược phát triển cho một ngành, một lĩnh vực. Cụ thể như sau:
Tiếp cận hệ thống
Tiếp cận hệ thống được sử dụng rộng rãi trong việc hoạch định chính sách và đặc biệt trong môi trường khi mà các yếu tố cơ bản chưa ổn định và cùng biến động.Khi tiếp cận hệ thống cần xác định các thành phần và yếu tố cơ bản của hệ thống, mối liên hệ và tác động qua lại giữa các thành phần này.
Nếu coi phát triển KT-XH của quốc gia là hệ thống lớn thì sự phát triển của phát triển giáo dục-đào tạo, phát triển GDNN,…. là các hệ thống nhỏ. Mỗi hệ thống nhỏ lại bao gồm các hệ thống nhỏ hơn. Bản thân mỗi hệ thống có tính độc lập tương đối, có chức năng riêng, vận hành, phát triển theo quy luật riêng của hệ thống đó nhưng đồng thời chịu sự chi phối của hệ thống lớn hơn.
Với cách tiếp cận này, chiến lược phát triển GDNN không chỉ là cách tiếp cận từ trên xuống mà còn là cách tiếp cận từ dưới lên, tạo ra một “bản phối” chỉnh thế đa dạng trong thống nhất, nhưng không mang tính áp đặt, duy ý chí. Tuy nhiên, dù có tiếp cận từ trên xuống hay từ dưới lên, thì với tư duy hệ thống, chiến lược phát triển GDNN phải thể hiện được những vấn đề sau:
- Bối cảnh (trong và ngoài nước)=>căn cứ
- Hiện trạng, tầm nhìn và vai trò của chiến lược GDNN đối với sự phát triển GD-ĐT đất nước trong dài hạn.
- Mục tiêu chiến lược dài hạn và các mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn.
- Các thành phần chính/giải pháp của Chiến lược
- Tổ chức xây dựng chiến lược, trong đó có nguồn lực để thực hiện
Tiếp cận theo mục tiêu
Cần lấy mục tiêu cuối cùng để làm mốc định hướng cho hoạt động.Cách tiếp cận này đòi hỏi phài đề ra được mục tiêu trong dài hạn và có mục tiêu ngắn hạn.Trên cơ sở các mục tiêu này, các hệ thống con và tiểu hệ thống để ra các mục tiêu, các hoạt động của mình.Như vậy, Chiến lược phát triển GDNN phải hình thành trên cơ sở Chiến lược phát triển LĐ-XH đến năm 2030 và tầm nhìn 2035.
Đến lượt mình, Chiến lược phát triển LĐ-XH phải hình thành trên cơ sở các mục tiêu phát triển KT-XH đất nước trong cùng thời kỳ này và qua đó đề ra các mục tiêu cụ thể cho lĩnh vực GDNN. Trên cơ sở các mục tiêu định hướng để lựa chọn các lĩnh vực hoạt động phù hợp, đồng thời các các giải pháp và nguồn lực để thực hiện chiến lược.
Tiếp cận lịch sử/ logic
Tiếp cận lịch sử sẽ cung cấp những căn cứ thực tiễn của quá trình tổ chức thực hiện chiến lược phát triển GDNN qua các thời kỳ. Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn tới phải/nên được xây dựng trên cơ sở kế thừa những thành tựu của Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011-2020 và trên cơ sở rút ra được những bất cập, tồn tại của chiến lược thời kỳ này.Tiếp cận logic cho thấy những mối liên hệ tất yếu, biện chứng giữa các thành tố của hệ thống và của hệ thống với bối cảnh kinh tế xã hội. Tiếp cận lịch sử và logic cho phép nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong những điều kiện lịch sử theo các giai đoạn thời gian cụ thể, những tồn tại cũng như thành tựu đạt được và triển vọng phát triển.
Tiếp cận phân tích, tổng hợp
Tiếp cận phân tích cho phép xem xét từng khía cạnh, từng nhân tố một cách biệt lập, từ đó xác định được những thuận lợi, cơ hội cũng như các thách thức, rủi ro có thể gặp phải trong quá trình thực hiện chiến lược do một trong các nhân tố bất lợi đã tiên liệu.
Tiếp cận tổng hợp cho phép xác lập các mối liên hệ giữa các khía cạnh và nhân tố đã phân tích nhằm phát huy những nhân tố tích cực, thuận lợi; khắc phục, hạn chế được những nhân tố tiêu cực. Tiếp cận phân tích, tổng hợp kết hợp với tiếp cận hệ thống cho phép nghiên cứu các vấn đề của hệ thống GDNN trong mối quan hệ tương tác giữa các thành tố trong hệ thống và với các yếu tố môi trường bên ngoài có liên quan đến hệ thống GDNN hiện tại cũng như xu hướng trong tương lai.
Tiếp cận Kịch bản
Về lý thuyết, có thể đưa ra các kịch bản khác nhau về chiến lược phát triển GDNN. Theo cách tiếp cận truyền thống thường chỉ giới hạn vào cách nhìn cổ điển, coi tương lai của GDNN là sự kéo dài, ngoại suy của quá khứ dạy nghề. Cách tiếp cận này chỉ đúng khi nền kinh tế không có sự đột biến và môi trường quốc tế không diễn biến phức tạp.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này hiện nay không phù hợp vì môi trường quốc tế có nhiều biến động, hơn nữa lại chịu tác động mạnh mẽ của CMCN 4.0.Theo tiếp cận kịch bản, tương lai của GDNNkhông chỉ dựa trên sự phát triển dạy nghề hiện tại (mặc dù có sự kế thừa, phát triển theo kiểu phân nhánh, đứt đoạn hoặc nhảy vọt) mà còn phải kết hợp với các yếu tố mới, thậm chí là những yếu tố “suy đoán”, “tưởng tượng khoa học”.
Với cách tiếp cận kịch bản mới kết hợp cả logic và “suy đoán”,“tưởng tượng khoa học” để đưa ra “bức tranh” tương lai có thể xảy ra của GDNN. Tuy nhiên, trong hoạt động GDNN trong bối cảnh mới, có thể có rất nhiều tham số khác nhau, có ảnh hưởng đến sự phát triển GDNN.
Vì vậy, quá trình xây dựng kịch bản phát triển GDNN phải bảo đảm tính thích ứng nhưng nhất quán; cũng cần tìm ra những cơ chế, chính sách, những giải pháp và nhiệm vụ cơ bản có tính khả thi cao để thực hiện hiệu quả. Do vậy, cần xây dựng nhiều kịch bản phát triển GDNN với các tham số khác nhau.
- Yêu cầu đặt ra đối với phát triển GDNN và xây dựng chiến lược phát triển
– Yêu cầu từ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững
Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB,2016) trong “Báo cáo Việt nam 2035”, đến năm 2035 Việt nam có khát vọng trở thành một nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sẽ trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao hoặc thu nhập cao.
Theo đó, tăng trưởng GDP bình quân đầu người phải đạt mức bình quân 7%/năm trong suốt thời kỳ.Vậy yếu tố nào sẽ quyết định hướng đi của Việt Nam? Kinh nghiệm quốc tế cho thấy năng suất lao động là nhân tố cơ bản. Có nhiều yếu tố làm tăng năng suất lao động, nhưng một yếu tố rất cơ bản là phải có một đội ngũ lao động có trình độ, có kỹ năng, có năng lực hấp thụ khoa học công nghệ tiên tiến và hiện đại.
Điều này đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng và mức độ phù hợp về kĩ năng của lực lượng lao động, bằng cách nâng cao khả năng đáp ứng và sự năng động của hệ thống GDNN.
– Yêu cầu từ hiện đại hoá nền kinh tế
Để đạt được mục tiêu và khát vọng đến năm 2035, Việt nam trở thành nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi đó, công nghệ hiện đại chiếm tỷ trọng cao và giữ vai trò chủ đạo trong tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 90% GDP và trên 70% lao động của nền kinh tế làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Từ đó đặt ra yêu cầu đối với nhân lực Việt Nam là phải nhanh chóng có đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ có đủ trình độ, năng lực tiếp thu có hiệu quả công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới và từng bước sáng tạo và sản xuất được công nghệ mới. Đồng thời phải có được nhân lực trình độ cao để hoạch định chính sách phát triển kinh tế, chính sách khoa học công nghệ hấp dẫn để thu hút chất xám của thế giới, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp công nghệ tiên tiến hàng đầu của các nước phát triển.
Hiện đại hóa nền kinh tế hướng tới xây dựng nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo. Điều này đòi hỏi phải có cải cách sâu rộng hệ thống giáo dục và đào tạo trong đó có GDNN, nhằm phát triển vốn con người chất lượng cao hơn.
-Yêu cầu từ sự biến đổi cơ cấu dân số
Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”.Đây là một lợi thế rất lớn. Tuy nhiên kể từ năm 2017 khi tỷ lệ người cao tuổi đã chiếm 10% dân số cả nước thì Việt Nam nhanh chóng trở thành một nước có dân số già. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang bắt đầu trở thành một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới.
Nếu năm 2010, cứ 11 người Việt Nam mới có 1 người cao tuổi, thì đến năm 2030 cứ 6 người dân sẽ có 1 người cao tuổi. Như vậy, chỉ sau khoảng 15 năm, dân số Việt Nam sẽ chuyển từ giai đoạn dân số trẻ sang giai đoạn dân số già, trong khi Việt Nam vẫn là một nước chưa giàu (các nước trên thế giới phải trải qua nhiều thập niên, thậm chí hàng thế kỷ mới diễn ra bước chuyển này).
Từ nay đến năm 2035, Việt Nam sẽ phải đối mặt với cơ cấu dân số biến động rất mạnh. Hệ quả của sự biến động dân số này là dân số trong độ tuổi lao động giảm xuống có nghĩa là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng thu nhập đầu người sẽ yếu đi, do vậy tăng cường đầu tư chiều sâu cho vốn con người và các nhân tố đẩy mạnh tăng trưởng năng suất khác càng trở nên thiết yếu hơn nếu muốn duy trì bền vững tăng trưởng cao.
-Yêu cầu từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
CMCN 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong cơ cấu của các ngành kinh tế, đặc biệt là công nghiệp cũng như đóng góp của mỗi ngành trong tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế của nước ta thời gian tới. CMCN 4.0 sẽ góp phần chuyển dịch sản xuất công nghiệp quốc gia theo hướng từ nền kinh tế năng suất thấp sang nền kinh tế năng suất cao. Hầu hết các xu hướng trên đều mang lại cơ hội tốt.
Nhưng chúng cũng có thể đi kèm những tác động phụ với những hệ quả ngoài dự kiến và cần được quản lý tốt. Công nghệ mới đòi hỏi kĩ năng cao, tiết kiệm lao động nên các ngành nghề phổ thông thuộc nhóm thu nhập trung bình sẽ dần biến mất và thay vào đó là những việc làm đòi hỏi tay nghề cao và mang lại thu nhập cao hơn.
Lao động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung (trung cấp, cao đẳng) cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới- kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0.
–Yêu cầu từ việc tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế
Là thành viên của nền kinh tế thế giới, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao để có thể đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế vẫn đang là yêu cầu bức thiết đối với nước ta hiện nay. Trong quá trình đổi mới và bước vào “sân chơi” toàn cầu, so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới nước ta không có lợi thế nào đáng kể, trừ những lợi thế nhất định về tài nguyên con người.
Do đó, để quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thành công với nền kinh tế thế giới, để thực hiện tham vọng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại thì nhân tố quyết định cho sự thành công đó chính là phải bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển và phát huy nguồn lực con người Việt Nam. Hệ thống GDNN Việt nam cần tiếp cận với các tri thức của thế giới, đào tạo được đội ngũ nhân lực không chỉ có kỹ năng nghề nghiệp mà còn có khả năng thích ứng trong môi trương hội nhập (còn nữa).
PGS.TS.Mạc Văn Tiến
(Bài 2): Định hướng chiến lược phát triển GDNN)
Tài liệu tham khảo
- Chiến lược phát triển địa phương, định hướng cho quy hoạch phát triển KT-XH tới năm 2030 và tầm nhìn 2045, (2019), Hội Thảo Khoa học, TP.Hồ Chí Minh
- Võ Văn Đức,(2012), Kinh nghiệm xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển bền vững của Nhật bản,Viện nghiên cứu Đông Bắc Á.
- Ngân hàng thế giới (WB, 2016), Báo cáo Việt nam 2035
- Mạc Văn Tiến (2009), Cách tiếp cận xây dựng chiến lược, Hội thảo Xây dựng Chiến lược phát triển dạy nghề, GIZ.
- Mạc Văn Tiến (2019), Hiện trạng lan tỏa của CMCN 4.0 và tác động đến nền kinh tế Việt nam, Đề tài cấp bộ.