24/08/2025 20:29:08

GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP VIỆT NAM – 80 NĂM VỮNG BƯỚC CÙNG ĐẤT NƯỚC

Bài 2: Xây dựng đất nước trong cơ chế bao cấp – Mạng lưới trường nghề rộng khắp (1975–1986)

Mời đọc Bài 1: Từ xưởng thợ kháng chiến đến nền tảng công nhân kỹ thuật – chặng đường 1945 – 1975

Sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam bước vào giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế trong cơ chế bao cấp. Trong bối cảnh khó khăn ấy, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nổi lên như một trụ cột quan trọng, đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật đông đảo phục vụ công cuộc kiến thiết. Đây là giai đoạn mà mạng lưới trường nghề được mở rộng nhanh chóng, trở thành nền móng nhân lực cho thời kỳ Đổi mới sau này.

Khôi phục đất nước, cấp thiết đào tạo nghề

Ngày 30/4/1975, chiến tranh kết thúc, non sông thu về một mối. Nhưng đất nước phải đối mặt với vô vàn thử thách: cơ sở hạ tầng bị tàn phá, thiếu vốn, thiếu máy móc, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.

Trong bối cảnh ấy, Đảng và Nhà nước xác định đào tạo nghề là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm vừa tạo việc làm cho hàng triệu lao động, vừa cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật để khôi phục sản xuất. Đây cũng là giai đoạn hệ thống đào tạo nghề được thống nhất trên cả nước – miền Nam tiếp nhận mô hình từ miền Bắc, đồng thời cải biến một số yếu tố kỹ thuật, quản lý từ chế độ cũ (1).

Giai đoạn từ  năm 1955 – 1969: Ngày 18/5/1955 Chính phủ ban hành Nghị định số 532/TTg về việc thành lập Vụ Quản lý nhân công trực thuộc Bộ Lao động. Giai đoạn này có 30 trường, quy mô đào tạo là 14.000 học sinh/năm.

Giai đoạn từ năm 1969 – 1978: Ngày 09/10/1969 Chính phủ ban hành Nghị định số 200/CP về việc thành lập Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật trực thuộc Bộ Lao động. Giai đoạn này có 159 trường, quy mô đào tạo là 48.000 học sinh/năm.

Với định hướng “Nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công nhân kỹ thuật là một nhiệm vụ cách mạng trọng yếu” (Nghị định 42/CP của Chính phủ) dạy nghề giai đoạn này đã được quan tâm và phát triển mạnh góp phần quan trọng đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng đất nước. Tuy nhiên dạy nghề giai đoạn này vẫn chịu ảnh hưởng, chi phối của nền kinh tế với cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp.

sản xuất lốp ô tô tại nhà máy cao si Sao Vàng năm 1977 (Ảnh TTXVN)
Sản xuất lốp ô tô tại nhà máy cao su Sao Vàng năm 1977 (Ảnh TTXVN)

Giai đoạn từ năm 1978 – 1987: Ngày 24/6/1978 Chính phủ ban hành Nghị định số 151/NĐ-CP quyết định tách Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật khỏi Bộ Lao động và đổi tên là Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

Giai đoạn này, ngành dạy nghề phát triển mạnh mẽ, đa dạng (có 366 trường dạy nghề, 212 trung tâm dạy nghề, toàn ngành có 9.833 giáo viên và quy mô đào tạo ở giai đoạn này trung bình là 176.000 học sinh/năm). Kết quả nổi bật là hình thành hệ thống trung tâm dạy nghề ở các quận, huyện, thị xã để đào tạo nghề ngắn hạn cho người lao động theo phương châm “Nhà nước, tập thể và người dân cùng chăm lo sự nghiệp dạy nghề” (1).

Bên cạnh đó, nhiều xí nghiệp, công ty quốc doanh mở trường hoặc lớp đào tạo tại chỗ. Điển hình là Trường Công nhân Kỹ thuật Lilama, Trường nghề ngành Than ở Quảng Ninh. Một số trường dạy nghề ngắn hạn được mở để đào tạo nhanh thợ may, thợ điện, thợ sửa xe máy, lái xe, chế biến thực phẩm (2).

Có thể nói, mạng lưới GDNN thời kỳ này đã vươn khắp toàn quốc, góp phần hình thành lực lượng sản xuất đồng đều từ thành thị tới nông thôn.

Đào tạo nghề thời bao cấp

Thời kỳ 1975–1986, GDNN chịu sự quản lý tập trung cao, cụ thể: Bao cấp toàn bộ: Học viên được miễn học phí, nhiều nơi cấp học bổng, lo cả ăn ở; Đào tạo theo chỉ tiêu: Nhà nước quy định ngành nghề, chỉ tiêu và phân bổ học viên; Thiên về thực hành: Nội dung đào tạo tập trung rèn tay nghề, ít cập nhật công nghệ mới; Nguồn tuyển sinh đa dạng: Lao động phổ thông, học sinh phổ thông, bộ đội xuất ngũ, cán bộ được cử đi học lại nghề.

Điểm nổi bật là việc học nghề gắn liền với phân công lao động: học xong, học viên hầu hết được phân về các nhà máy, xí nghiệp.

Trường Công nhân kỹ thuật Lâm nghiệp I Trung ương (Nay là trường Cao đẳng Công nghệ và Nông lâm Đông Bắc) được thành lập từ năm 1970.
Trường Công nhân kỹ thuật Lâm nghiệp I Trung ương (Nay là trường Cao đẳng Công nghệ và Nông lâm Đông Bắc) được thành lập từ năm 1970.

Ông Phạm Văn Hòa (Hải Phòng), nguyên học viên Trường Công nhân Kỹ thuật Lilama (1978), nhớ lại: “Thời đó, chúng tôi được cấp từ đôi giày bảo hộ đến áo bảo hộ. Sáng học lý thuyết, chiều ra công trường hàn dầm, lắp ống. Học xong, cả lớp được phân về công trình lớn như Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Thủy điện Hòa Bình. Ai cũng tự hào vì nghề mình học gắn liền với công trình tầm vóc quốc gia” (3).

Bà Nguyễn Thị Lan (Thái Nguyên), thợ may xuất khẩu những năm 1980–1985, kể: “Ngày ấy, học nghề may chỉ vài tháng là có thể ra phân xưởng. Chúng tôi may quần áo xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu, đổi lại lấy máy móc, thiết bị về cho đất nước. Mỗi sản phẩm đều gắn với nhiệm vụ chính trị và kinh tế” (4).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước vấn đề đào tạo nghề giai đoan này đã đạt được những thành quả ban đầu tích cực, như: Lực lượng công nhân kỹ thuật tăng nhanh, góp phần vận hành nền kinh tế; Mạng lưới trường nghề bao phủ toàn quốc; Học viên ra trường hầu như được bố trí việc làm.

Tuy nhiên, nội dung đào tạo còn chậm đổi mới, thiếu cập nhật công nghệ tiên tiến; Cơ chế quản lý tập trung, cứng nhắc, thiếu tính tự chủ.

Chuyên gia Liên Xô (cũ) chuyên giao kỹ thuật cho giáo viên Việt Nam.
Chuyên gia Liên Xô (cũ) chuyển giao kỹ thuật cho giáo viên Việt Nam.

GS.TS Phạm Tất Dong nhận định: “Dạy nghề thời kỳ bao cấp có thể còn đơn giản, thiếu thốn, nhưng đã đặt nền móng cho sự hình thành lực lượng lao động kỹ thuật đông đảo – điều kiện tiên quyết cho công cuộc đổi mới sau này” (5).

Mạng lưới GDNN giai đoạn 1975–1986: Đến đầu thập niên 1980, Việt Nam có khoảng 366 trường dạy nghề, 212 trung tâm dạy nghề; Đội ngũ giáo viên dạy nghề: 9.833 người; Mỗi năm đào tạo trung bình 176.000 học viên; Tính đến năm 1985, cả nước có gần 2 triệu lao động kỹ thuật được đào tạo từ hệ thống này (6).

Giai đoạn 1975–1986 đã hình thành nên một đội ngũ công nhân kỹ thuật hùng hậu, duy trì sản xuất trong thời kỳ bao cấp đầy khó khăn. Đây chính là lực lượng nòng cốt để Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới từ năm 1986, mở ra thời kỳ hội nhập và phát triển.

—————-

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ LĐTB&XH (2020). Dạy nghề – 45 năm phát triển. Truy cập tại: https://mcc.molisa.gov.vn/day-nghe-45-nam-phat-trien/88/32
2. Luận văn “Tóm tắt lịch sử phát triển GDNN trường ĐH Công nghiệp TP.HCM” (2008). Truy cập tại: https://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-tom-tat-lich-su-phat-trien-giao-duc-nghe-nghiep-truong-dai-hoc-cong-nghiep-tp-ho-chi-minh-48181/
3. Nhân chứng, phỏng vấn trong tư liệu GDNN (lưu trữ, 2020).
4. Tài liệu thực tế ngành dệt may, Bộ Công nghiệp nhẹ (1985).
5. Công dân & Khuyến học (2025). “Tư duy lại giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam”. Truy cập tại: https://congdankhuyenhoc.vn/tu-duy-lai-giao-duc-nghe-nghiep-o-viet-nam-179250529124906818.htm
6. Bộ LĐTB&XH (2020). Dạy nghề – 45 năm phát triển. Truy cập tại: https://mcc.molisa.gov.vn/day-nghe-45-nam-phat-trien/88/32

Nhất Nam

Đón đọc:

Bài 3: Giáo dục nghề nghiệp – Xây dựng nền tảng cho công cuộc đổi mới (1986 – 1999)

Bài 4: Tích cực chuyển mình, khẳng định vị thế quốc gia, hội nhập quốc tế (2000 – 2025)

Bài cuối: Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2030, tầm nhìn 2045