PMI – chỉ số đo sức khỏe lĩnh vực sản xuất – tháng 4 giảm 32,7 điểm, mức thấp nhất trong 9 năm IHS Markit thu thập dữ liệu về Việt Nam.
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng – Manufacturing Purchasing Managers Index (PMI) hàng tháng được thực hiện bằng cách khảo sát lãnh đạo các công ty tư nhân ngành sản xuất, dịch vụ, góp phần đánh giá sức khỏe chung của cả nền kinh tế. PMI được giới kinh doanh sử dụng để hiểu xu hướng thị trường đang mở rộng, đứng yên hay co lại.
PMI của Việt Nam chỉ đạt 32,7 điểm trong tháng 4 và là mức thấp chưa từng có trong lịch sử 9 năm IHS Markit thu thập dữ liệu về Việt Nam. Tháng 3, PMI đạt 41,9 điểm. “Điều này cho thấy một tháng suy giảm kỷ lục của sức khỏe lĩnh vực sản xuất”, báo cáo của IHS Markit viết.
Andrew Harker, Giám đốc kinh tế tại IHS Markit, nhận xét, PMI tháng 4 cho thấy sự ảnh hưởng nặng nề mà Covid-19 và các biện pháp ngăn chặn dịch bệnh gây ra cho lĩnh vực sản xuất Việt Nam. Dữ liệu cũng cho thấy mức giảm chưa từng có của lĩnh vực sản xuất, dẫn đầu là sự suy giảm của sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới.
Cả hai tham số này đều giảm nghiêm trọng trong tháng 4 khi các đơn hàng bị hủy và các công ty ngừng hoạt động. Mức giảm của tổng đơn đặt hàng mới không mạnh bằng của riêng số lượng đơn xuất khẩu mới, cho thấy ảnh hưởng đại dịch lên các thị trường trên thế giới.
Hoạt động mua hàng cũng giảm. Tình trạng nhập khẩu hàng hóa khó khăn, khan hiếm nguyên vật liệu và những trở ngại với hoạt động đi lại khiến thời gian giao hàng của nhà cung cấp bị kéo dài.Khoảng hai phần ba số người trả lời khảo sát cho biết sản lượng sản xuất giảm trong tháng. Việc thiếu các đơn đặt hàng mới dẫn đến giảm mạnh lượng công việc, từ đó các nhà sản xuất phải giảm lực lượng lao động. Một số báo cáo cũng cho thấy tình trạng nhân viên nghỉ việc lan rộng. Tháng 4 là tháng thứ hai liên tiếp có mức độ giảm việc làm và mạnh nhất kể từ khi chỉ số này được ghi nhận.
Đây cũng là tháng thứ ba liên tiếp giá bán đầu ra giảm khi chi phí đầu vào tiếp tục ở mức thấp, vì thiếu nhu cầu hàng hóa đầu vào và giá dầu lao dốc. Tốc độ giảm của chỉ tiêu này mạnh và nhanh nhất trong lịch sử khảo sát, tương đương với tốc độ giảm trong tháng 6/2012.
“Việc tháng 4 có là tháng suy thoái tồi tệ nhất hay không sẽ tùy thuộc vào cách mà các công ty và khách hàng phản ứng với sự nới lỏng phong tỏa”, Andrew Harker cho biết.Trong khi đó, tâm lý kinh doanh cũng trở nên tiêu cực. Lần đầu tiên trong lịch sử khảo sát, các công ty có thái độ tiêu cực về triển vọng sản xuất trong năm tới. Tâm lý kinh doanh đã xấu đi khi có những lo ngại ảnh hưởng của đại dịch có thể kéo dài. Khoảng 40% số người trả lời khảo sát cho rằng triển vọng là tiêu cực trong tháng 4.
Trong bảng xếp hạng sức khỏe tài chính của 66 nền kinh tế mới nổi, Việt Nam đứng thứ 12, thuộc nhóm an toàn sau dịch Covid-19 nhờ các chỉ số tài chính ổn định.
Bảng xếp hạng của tạp chí The Economist dựa trên 4 chỉ số sức mạnh tài chính, bao gồm nợ công, nợ nước ngoài, chi phí đi vay và dự trữ ngoại hối. Theo đó, hơn 30 nền kinh tế mới nổi đang đối mặt với áp lực lớn, tệ nhất là Lebanon và Venezuela.
Trong nhóm các nền kinh tế an toàn, Botswana đứng đầu, tiếp theo là Đài Loan và Hàn Quốc. Việt Nam xếp thứ 12 sau Trung Quốc và Guatemala với các chỉ số nợ công, nợ nước ngoài, chi phí đi vay và dự trữ ngoại hối đều ở mức ổn định cho đến mạnh.
The Economist đánh giá phần lớn các nền kinh tế trong nhóm trên đều đủ khỏe mạnh để vượt qua đại dịch. Nhóm 30 nền kinh tế yếu nhất có quy mô tương đối nhỏ, chỉ chiếm 11% tổng GDP của toàn bộ 66 nền kinh tế.
Theo The Economist, dịch Covid-19 làm tổn thương các nền kinh tế mới nổi theo 3 cách: đi lại bị hạn chế, doanh số xuất khẩu sụt giảm và nguồn đầu tư nước ngoài sa sút. Kể cả khi dịch được kiểm soát trong nửa sau năm nay, GDP của các nền kinh tế mới nổi cũng sẽ sụt giảm khoảng 6,6%.
Thống kê của Viện Tài chính Quốc tế (IIF) cho thấy từ tháng 1, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút 100 tỷ USD ra khỏi trái phiếu và cổ phiếu của các nền kinh tế mới nổi.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đánh giá để vượt qua cuộc khủng hoảng Covid-19, các nền kinh tế mới nổi cần ít nhất 2.500 tỷ USD từ các nguồn nước ngoài hoặc dự trữ trong nước.
Phóng viên (t/h)