Nhằm duy trì cảnh quan tuyệt đẹp với thảm cỏ xanh mượt ở những sân golf, người ta phải sử dụng một lượng cực lớn phân bón hóa học, thuốc trừ sâu độc hại, dẫn đến nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước hiện có hơn 140 dự án sân golf trên 39 tỉnh, thành, có mục đích kinh doanh sân golf đã được cấp phép hoặc cấp chủ trương cho phép nghiên cứu thực hiện dự án. Trong đó, kinh doanh golf thuần tuý chỉ khoảng 20 dự án, các dự án còn lại là kết hợp giữa golf-kinh doanh bất động sản và dịch vụ.
Tổng diện tích đất cho các dự án này lên đến gần 50.000 ha, trong đó khoảng 1/3 diện tích dành cho sân golf, diện tích còn lại là kinh doanh bất động sản, nhà nghỉ, biệt thự, nhà hàng…
Khảo sát cho thấy, những dự án nghỉ dưỡng sân golf có giá bán cao hơn từ 19% so với các sản phẩm bất động sản nghỉ dưỡng cao cấp khác thậm chí những dự án có vị trí gần các thành phố lớn cao hơn từ 20 – 35% giá bán.
Theo thống kê sơ bộ, khu vực có số lượng sân golf nhiều nhất là Nam Trung bộ với 27 sân, kế đến là đồng bằng Bắc bộ với 25 sân, các tỉnh miền núi phía bắc – 11 sân, khu vực Tây Nguyên – 11 sân, Bắc Trung bộ – 7 sân, khu vực Tây Nam bộ có 6 sân.
So sánh với năng lực các sân golf hiện có và sự phát triển của bộ môn thể thao này tại Việt Nam, thì trong khoảng thời gian 20 năm nữa, số sân golf hiện đang có vẫn đủ để phục vụ cho người chơi golf.
Nhìn từ góc độ rộng, thì golf dường như là một môn thể thao không gây hại, thậm chí còn mang lại một nguồn lợi nhuận lớn và giải quyết bài toán công việc cho người lao động, là phương án phát triển việc sử dụng đất, giữ nước và là nơi kết nối chặt chẽ nhiều thành phần của tự nhiên, cảnh quan sông hồ, đại dương, núi non và cả cộng đồng trong đó.
Tuy nhiên, việc xây dựng các sân golf, bao gồm một số hoặc tất cả các công việc có thể gây tác động xấu đến môi trường, ví dụ như làm mất một diện tích rất lớn đất canh tác, xoá sạch lớp phủ thực vật tự nhiên, gây ra cháy rừng, huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan môi trường sống, tạo ra đất và lớp cỏ ngoại lai, gây ra những biến đổi về địa hình và nguồn nước ngầm địa phương…
Có thể thấy việc Chính phủ ngừng cấp phép cho các dự án sân golf là việc làm cần thiết.
Hàng trăm tấn hóa chất được sử dụng mỗi năm
PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Đại Học Cần Thơ), xem các sân golf là “hiểm họa” về môi trường. Dẫn các nghiên cứu của thế giới, TS Tuấn nói các nhà khoa học của Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) cho biết trên mỗi héc ta sân golf phải sử dụng trung bình một lượng hóa chất gấp 3 – 5 lần số hóa chất cho một khu đất canh tác nông nghiệp tương tự.
Các độc chất này là nguy cơ cao gây ung thư. Ở một số quốc gia vùng Đông Nam Á, người ta ước tính mỗi sân golf tiêu thụ khoảng 1,5 tấn hóa chất mỗi năm. Số hóa chất này bị nước tưới, nước mưa… hòa tan cuốn xuống các ao hồ, sông suối và thẩm thấu vào nước ngầm, tiếp tục trở thành nguồn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho khu vực.
Không chỉ ô nhiễm nguồn nước, một số sân golf còn trừ sâu bằng máy phun đã phát tán 90% độc chất vào không khí. “Các báo cáo này được làm khá lâu nhưng vẫn còn nguyên giá trị, bởi bây giờ người ta có thể thay đổi các loại phân, thuốc nhưng để chăm sóc được sân golf xanh tốt vẫn cần một lượng hóa chất rất lớn và chắc chắn sẽ thải ra môi trường một lượng độc chất rất cao”, TS Tuấn nhận định.
“Cỏ sân golf là một loại cỏ rất đặc trưng, giống như “tiểu thư” vậy. Nó chịu khô không được, dư nước cũng không xong mà sâu bọ lại rất thích ăn nên người ta phải tưới nước liên tục kèm với phân bón, thuốc trừ sâu. Ví dụ như một sân golf 18 lỗ ở Malaysia tiêu thụ 5.000 m3 nước mỗi ngày, lượng nước này đủ cho ít nhất 20.000 hộ gia đình sử dụng”, TS Tuấn chia sẻ.
Nguy cơ ô nhiễm nguồn nước từ sân golf
Việc sử dụng thuốc trừ sâu ở sân golf sẽ làm tăng lượng thủy ngân có hại cho sức khỏe. Một nhóm nghiên cứu ở Canada đã lấy mẫu đất từ những khu vực trồng cỏ của sân golf và mẫu bùn lắng của các kênh dẫn nước.
Sau khi phân tích, các chuyên gia nhận thấy các khu vực trồng cỏ có nồng độ thủy ngân cao nhất và vượt tiêu chuẩn môi trường của Canada. Phần bùn lắng của một hồ ở sân golf cũng có mức thủy ngân cao hơn mức ở một hồ khác cách đó hơn 8 km. Cá ở hồ sân golf cũng có nhiều thủy ngân hơn cá ở hồ kia.
Theo nghiên cứu của chuyên gia Charles Melton (Đại học California, Mỹ), đa số các loại phân hóa học và thuốc trừ sâu dùng cho sân golf đều có chứa các hợp chất nitrogen và phosphorus gây tổn hại môi trường. Nếu trời mưa hoặc sân golf được tưới nước sau khi bón phân hóa học và thuốc trừ sâu, các hóa chất này sẽ hòa tan và trôi theo dòng nước đến nguồn nước xung quanh, gây tác động xấu đến hệ sinh thái.
Về phân bón hóa học, đạm dư thừa bị chuyển thành dạng nitrat (NO3-) hoặc nitrit (NO2-) là những dạng gây độc trực tiếp cho các động vật thủy sinh, gián tiếp cho các động vật trên cạn khi sử dụng nguồn nước.
Đặc biệt gây hại cho sức khỏe những người trực tiếp sử dụng các nguồn nước hoặc sử dụng các sản phẩm trồng trọt, nhất là các loại rau quả ăn tươi. Theo các nghiên cứu gần đây, nếu trong nước và thực phẩm, hàm lượng nitơ và phospho, đặc biệt là nitơ dưới dạng muối (nitrit và nitrat) cao quá sẽ gây ra một số bệnh nguy hiểm cho người đặc biệt là trẻ em.
Dư thừa phospho trong nguồn nước làm giảm khả năng hấp thu can xi dẫn đến nguy cơ gây loãng xương ngày một tăng, đặc biệt ở phụ nữ.
Đáng lo ngại là tình trạng phát triển sân golf kế bên các dòng sông đã diễn ra ở nhiều nơi. Đặc biệt, với việc sử dụng một lượng lớn hóa chất để chăm sóc cỏ sân golf sẽ gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước khu vực hạ lưu, tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân.
Nhận xét về tình trạng này, một chuyên gia môi trường bức xúc: “Trên thế giới, sân golf được xây dựng ở những nơi xa khu dân cư, đất không canh tác được hoặc hiệu quả không cao. Còn ở VN đang có xu hướng làm sân golf ngay gần các con sông. Ở các vị trí nhạy cảm như vậy rất khó để xử lý được vấn đề về môi trường. Chất độc hại rất dễ chảy tràn ra sông, thẩm thấu xuống đất và người dân ở xung quanh đó sẽ lãnh đủ”.
Nên chăng cần có những chính sách quản lý nghiêm ngặt hơn trong việc chuyển đổi tài nguyên đất sang sân golf, quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên nước cho sân golf, kiểm soát chặt chẽ lượng hoá chất và phân bón sử dụng trong các sân golf, cần có những đánh giá cụ thể hơn (quan trắc thường xuyên) về hiện trạng môi trường tại các sân golf đang hoạt động nhằm có những giải pháp giảm thiểu để phát triển bền vững hơn loại hình thể thao giải trí này.
Quang Trung