27/10/2023 12:23:41

Cơ hội và thách thức trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay

Kinh tế số đang phát triển nhanh và trở thành xu hướng, tiềm năng phát triển mới trên mạng phạm vi toàn cầu. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang coi việc phát triển kinh tế số là cách thức hữu hiệu để thúc đẩy chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế và định hình lại năng lực cạnh tranh cốt lõi của quốc gia. “Theo Báo cáo kinh tế số của Diễn đàn thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD), kinh tế số hiện đang chiếm 15% GDP toàn cầu, tỷ lệ này của Mỹ là 21%, Trung Quốc là 30%”[1]. Hòa chung xu thế phát triển kinh tế số của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh phát triển kinh tế số, xem đây là bước “bức phá” trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cần tìm kiếm giải pháp tháo gỡ trong thời gian tới.    

  1. Cơ hội trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Thứ nhất, phát triển kinh tế số ở Việt Nam đã và đang được Đảng và Nhà nước quan tâm với nhiều chủ trương, giải pháp chuẩn bị cho quả trình chuyển đổi sang nền kinh tế số. Cụ thế như: Ngày 27-9-2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 52-NQ/TW về Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Trên cơ sở đó, ngày 03-06-2020 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg về Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%. Bên cạnh đó, ngày 11-05-2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg về Ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh: Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn mới; là động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả; là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, các ngành, lĩnh vực kinh tế – xã hội, địa phương và doanh nghiệp; là nền tảng để thực hiện chuyển đổi số quốc gia; góp phần quan trọng nâng cao đời sống nhân dân, phát triển bền vững, đảm bảo quốc phòng và an ninh… Những chủ trương, định hướng, quyết định trên chính là tiền đề quan trọng để thực hiện chuyển đổi số và phát triển kinh tế số.

Thứ hai, nhiều doanh nghiệp công nghệ ở Việt Nam đã luôn tích cực, chủ động trong đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, Việt Nam hiện có khoảng 50.000 doanh nghiệp phần cứng, phần mềm, nội dung số và các dịch vụ ICT (công nghệ thông tin và truyền thông), tổng doanh thu năm 2017 đạt 91,6 tỷ USD, gấp 12 lần so với năm 2010 (7,6 tỷ USD); 85% doanh thu thuộc ngành công nghiệp phần cứng. Các thiết bị ICT chiếm khoảng 1/4 kim ngạch xuất khẩu, trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Công nghệ phần mềm có tốc độ tăng trưởng cao (15-25%/năm). Với khoảng 9.500 công ty phầm mềm đạt 3,7 tỷ USD doanh thu (2017)[2], Việt Nam đã trở thành điểm “gia công phần mềm” lớn thứ hai cho Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc.

Thứ ba, Việt Nam vẫn luôn được đánh giá là quốc gia có môi trường chính trị, xã hội ổn định, cùng với nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố vững chắc, có dân số trẻ, nhanh nhạy trong nắm bắt công nghệ, nằm trong tốp đầu các quốc gia có tốc độ tăng trưởng về số người dùng Internet, điện thoại thông minh và sử dụng mạng xã hội. Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp và người dân luôn quan tâm và dành sự ưu tiên lĩnh vực chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Thứ tư, Việt Nam đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, cải cách mạnh mẽ nền hành chính theo hướng số hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính phủ đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm phần mềm quốc tế, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, phát triển các thành phố thông minh, tăng cường các cơ chế chính sách và đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp. Một khía cạnh quan trọng khác của Chương trình là thúc đẩy các cơ sở ươm tạo khởi nghiệp, đầu tư mạo hiểm và nhiều công nhân được đào tạo và có kỹ năng công nghệ thông tin. Với quyết tâm chính trị, nền tảng thể chế và công nghệ ở mức khá tích cực, đây là cơ sở để Việt Nam tự tin về khả năng chuyển đổi thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số[3].

Thứ năm, trong những năm gần đây, Việt Nam luôn được ghi nhận là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN với một số kết cấu hạ tầng viễn thông – công nghệ thông tin khá tốt, phủ sóng rộng, mật độ người dùng cao.

Theo thống kê từ Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương), trong 10 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Hiện tại, với khoảng 64 triệu người sử dụng internet, 57% dân số Việt Nam có tài khoản mạng xã hội. Cùng với sự thâm nhập ngày càng sâu rộng của internet, các thiết bị di động và mạng xã hội, nên ngày càng nhiều cá nhân tham gia mạng lưới thương mại điện tử[4]… là điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử, kinh tế số.

Hiện nay, công nghệ cao và số hóa đã lan tỏa đáng kể trong cộng đồng doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển cho những ai biết “tư duy lại, cơ cấu lại, xây dựng lại”. Thực tế cho thấy, các tập đoàn công nghệ như: FPT, CMC, Thaco, Vinagame, TH – Truemilk… đã luôm đi đầu trong đổi mới, phát triển thương hiệu, trong đó, đã có những tập đoàn “vươn lên” khẳng định là tập đoàn số trong thời gian ngắn. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chứng tỏ được năng lực công nghệ số, thông qua các dự án PoC (Proof of Concept – có thể hiểu đơn giản là việc triển khai thử nghiệm một ý tưởng để xem tính khả thi của lý thuyết đó) như: Công nghệ cho lĩnh vực xe tự lái, robot thông minh, AI… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tham gia hỗ trợ “chuyển đổi số” cho các tập đoàn lớn như Airbus, Boeing, UPS, GE… và là đối tác lớn thứ hai của Nhật Bản trong tham gia nghiên cứu, phát triển các dự án công nghệ AI, Blockchain, robot, IoT… Điều này sẽ khuyến khích hoạt động thương mại điện tử, quảng cáo, kinh tế số…

  1. Thách thức trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội, phát triển kinh tế số ở Việt Nam vẫn còn không ít khó khăn, thách thức cần vượt qua là:

Một là, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta vẫn đang gặp khó khăn trong chuyển đổi số, kinh tế số. Mặc dù, các doanh nghiệp đã nhận thức tốt về vai trò của kinh tế số nhưng do khả năng sản xuất còn hạn chế, mức độ tự động hóa chưa cao, gặp không ít khó khăn trong áp dụng chuyển đổi số. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp số ở Việt Nam hiện vẫn đang ở vị thế không thuận lợi và đang phải “chia phần” chiếc bánh doanh thu với tập đoàn lớn chiếm thị phần chi phối trên thị trường như Samsung, Intel, Alibaba… Mặt khác, do nhiều doanh nghiệp mới tham gia thị trường, còn đi sau về công nghệ, chưa làm chủ được các công nghệ lõi của chuyển đổi số nên sức cạnh tranh còn yếu.

Hai là, niềm tin của không ít người Việt Nam về nền kinh tế số, giao dịch số, tiêu dùng số… còn thiếu. Với mục tiêu, thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, áp dụng thanh toán điện tử và dịch vụ “ngân hàng số” nhưng nhiều người dân trưởng thành của Việt Nam vẫn chưa có tài khoản ngân hàng. Loại hình thanh toán phổ biến nhất cho thương mại điện tử vẫn là tiền mặt. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng vẫn chưa thật sự tin tưởng các hình thức kinh doanh online, họ cho rằng, đây là hình thức bán hàng lừa đảo do chất lượng hàng hóa chưa đúng như quảng cáo.

Ba là, bảo đảm an ninh mạng cho kinh tế số còn chưa đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra. Thực tế cho thấy, tiền đề cơ bản để kinh tế số Việt Nam phát triển mạnh hơn trong tương lai là hệ thống mạng 5G để thời gian giao dịch ngắn và độ an toàn cao. Tuy nhiên, theo thống kê của hãng bảo mật Kaspersky, trong năm 2018, Việt Nam nằm trong “top 3” quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất thế giới. Theo Trung tâm ứng cứu sự cố máy tính Việt Nam (VNCERT) cho biết, có tổng cộng 10.000 vụ tấn tấn công mạng nhằm vào Internet Việt Nam năm 2017, gây thất thoát 12,3 nghìn tỷ đồng[5]. Điều đó cho thấy, hiện Việt Nam đang đứng trước “thách thức” rất lớn trong lĩnh vực bảo đảm an toàn thông tin, an toàn trên không gian mạng nếu muốn đưa kinh tế số trở thành một trong những trụ cột chính của nền kinh tế.

Bốn là, sự thiếu hụt nguồn nhân lực kinh tế số, cả về số lượng và chất lượng là thách thức rất lớn, đặc biệt là nhân lực công nghệ thông tin, truyền thông chất lượng cao, nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu… Nền giáo dục Việt Nam có một số khâu còn chưa đáp ứng được xu thế phát triển nhanh chóng của kinh tế số, kinh tế thông minh trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay.

Năm là, kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của chuyển đổi số, kinh tế số. Trong nền kinh tế số, dữ liệu chính là tài nguyên, là nguồn lực quan trọng của sự phát triển kinh tế đất nước. Từ dữ liệu, các mô hình số hóa tạo ra những dịch vụ cá nhân hóa tối ưu và tận dụng được hiệu quả của các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống dữ liệu ở Việt Nam vẫn còn phân tán, chưa thực sự được kết nối và chia sẻ một cách đồng bộ. Do đó, Việt Nam đang đối mặt với không ít thách thức đến từ việc đòi hỏi xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu chung của quốc gia.

  1. Mục tiêu và một số giải pháp phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới

Nhận thức rõ những cơ hội và thách thức trên, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 về Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó, đã đặt ra nhiều mục tiêu cho giai đoạn 2025 – 2045. Cụ thể đến năm 2025: 1) Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN; 2) Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN, Internet băng thông rộng phủ 100% các xã; 3) Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP, năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm…

Mục tiêu đến năm 2030: 1) Duy trì xếp hạng về chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới; 2) Mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp; 3) Kinh tế số chiếm trên 30% GDP, năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm…

Đồng thời, phấn đấu đến năm 2045: Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á; có năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, môi trường, quốc phòng – an ninh…

Để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế số nêu trên, trong thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức và niềm tin của nhân dân về vai trò của chuyển đổi số, phát triển kinh tế số cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và cộng đồng dân cư.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế cho phát triển kinh tế số. Đồng nghĩa là kinh tế số, công nghệ số, sản xuất thông minh cần được ứng dụng rộng trong nhiều ngành nghề như: Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, thương mại… Tìm kiếm nhiều giải pháp “đột phá” để thúc đẩy chuyển đổi số, từ chuyển đổi số cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư… điều này có thể giúp gia tăng GDP từ 1- 4 % GDP;

Thứ ba, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nhân lực số cho tương lai. Quan tâm hơn nữa đến đổi mới giáo dục nhằm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho kinh tế số. Đồng thời, thu hút các chuyên gia về công nghệ số, doanh nhân số vào làm việc cho các tổ chức và doanh nghiệp của Việt Nam…

Thứ tư, nâng cao hơn nữa năng lực công nghệ thông tin cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế số, đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp trong chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong chiến lược đổi mới, phát triển doanh nghiệp số.

Thứ năm, đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu chung của quốc gia theo hướng có thể thành lập các “thung lũng AI” cho các vùng kinh tế để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo.

Thứ sáu, tiếp tục đưa quản trị số vào lĩnh vực quản lý nhà nước để tiết kiệm thời gian, thủ tục, chi phí cho người dân, doanh nghiệp; đồng thời, nâng cao hơn nữa chất lượng của việc thực thi các chủ trương, chính sách về kinh tế số của các địa phương trong cả nước.

Tóm lại, phát triển kinh tế số là đang xu hướng tất yếu của bất kỳ quốc gia nào nếu không muốn tụt lại phía sau. Tuy nhiên, phát triển kinh tế số đem lại nhiều cơ hội cũng như đặt ra không ít thách thức đối với các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do đó, việc lựa chọn và ưu tiên lĩnh vực trọng tâm để đầu tư là yếu tố then chốt, quyết định thành công trong việc phát triển kinh tế số của mỗi quốc gia. Việt Nam hiện đang hướng ưu tiên cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số và coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và bao trùm trong bối cảnh mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

Tài liệu tham khảo thêm:

  1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I và t.II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.
  2. Bộ Chính trị khóa XII, Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019 về Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

3 Phạm Thị Thùy, Thúc đẩy phát triển kinh tế số nhanh và bền vững, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 303 năm 2021, tr. 49-53.

  1. Trương Nam Trung, Những gợi mở về kinh tế chính trị trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Công thương, số 24, tháng 10-2021.
  2. Trần Mai Ước, Kinh tế số Việt Nam – Những điểm nghẽn và các giải pháp để phát triển kinh tế số theo hướng bền vững, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 2 năm 2021, tr. 41-47.

* Khoa Kinh tế chính trị, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

[1] TS. Nguyễn Thế Bính, Phát triển Kinh tế số tại Việt Nam, https://thitruongtaichinhtiente.vn, ngày 11-09-2022.

[2] Xem: Think Tank Vinasa, Việt Nam Thời Chuyển Đổi Số, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2019.

[3] Xem: Bùi Kim Thanh, Phát triển kinh tế số ở Việt Nam, https://tuyengiao.vn, ngày 26-7-2021.

[4] Xem: Lan Khanh, Chính sách – Chìa khóa thúc đẩy nền kinh tế số ở Việt Nam, https://mof.gov.vn, ngày06-06-2019.

[5] Xem: Trọng Đạt, Chuyển đổi số và hiện trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam, https://vietnamnet.vn, cập nhật ngày 12-3-2019.

TS.Trần Thị Ngọc Minh và TS. Nguyễn Thị Hồng Lâm*