Mời đọc:
– Bài 1: Từ xưởng thợ kháng chiến đến nền tảng công nhân kỹ thuật – Chặng đường 1945 – 1975
– Bài 2: Xây dựng đất nước trong cơ chế bao cấp – Mạng lưới trường nghề rộng khắp (1975 – 1986)
– Bài 3: Giáo dục nghề nghiệp – Xây dựng nền tảng cho công cuộc đổi mới (1986 – 1999)
– Bài 4: Tích cực chuyển mình, khẳng định vị thế quốc gia, hội nhập quốc tế (2000 – 2025)
Trong bối cảnh chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) đang được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Đây không chỉ là giải pháp đáp ứng nhu cầu lao động trong nước, mà còn là chìa khóa nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Với tầm nhìn đến năm 2030 và khát vọng 2045, GDNN được kỳ vọng trở thành trụ cột quan trọng, góp phần quyết định vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước thịnh vượng, hùng cường.
Đột phá từ chính sách đến thực tiễn
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chỉ có thể bền vững khi gắn liền với đổi mới mạnh mẽ từ thể chế đến thực tiễn triển khai. Đại diện Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội nhấn mạnh, muốn đạt được bước tiến đột phá, GDNN phải được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển, từ đó ưu tiên nguồn lực, ban hành cơ chế khuyến khích tự chủ, thúc đẩy xã hội hóa và đặc biệt là hoàn thiện hệ thống chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, bảo đảm sự tương thích với khung trình độ khu vực và quốc tế. Đây là điều kiện tiên quyết để lao động Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh và di chuyển trên thị trường quốc tế.
Trao đổi với phóng viên, TS. Phan Sỹ Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và Nghề công tác xã hội Việt Nam, thẳng thắn cho rằng không thể phát triển GDNN nếu xã hội còn coi đây là “sự lựa chọn thứ hai” sau đại học. Ông nhấn mạnh: “Muốn tạo nền tảng lâu dài, chúng ta phải thay đổi nhận thức toàn xã hội về giá trị và cơ hội của GDNN. Đây không chỉ là con đường ngắn hơn, mà là lựa chọn song hành, mở ra nhiều cơ hội nghề nghiệp bền vững”. Theo ông, hệ thống GDNN chỉ thực sự hấp dẫn khi gắn chặt với nhu cầu thực tiễn của thị trường, lấy doanh nghiệp và người học làm trung tâm.
Từ góc độ quản lý, bà Nguyễn Thị Việt Hương, Phó Cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ GD&ĐT), cho rằng chuyển đổi số chính là chìa khóa để rút ngắn khoảng cách giữa GDNN và thực tiễn lao động. Bà phân tích, số hóa giáo trình, ứng dụng công nghệ mô phỏng 3D, thực tế ảo (VR/AR) và cá nhân hóa đào tạo bằng AI sẽ mở ra mô hình đào tạo linh hoạt, tiết kiệm chi phí nhưng vẫn bảo đảm chất lượng. Đây không chỉ là xu hướng, mà là giải pháp bắt buộc để GDNN thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động.
Thực tế, dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) cũng đã đưa ra hàng loạt cải cách: chính thức công nhận trung học nghề, mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN, bổ sung cơ chế giảng viên đồng cơ hữu, và nâng chuẩn hệ thống bảo đảm chất lượng đào tạo. Đặc biệt, Điều 4 của Dự thảo Luật nêu rõ chính sách phát triển GDNN theo hướng mở, linh hoạt, chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và ưu tiên đầu tư nhân lực trọng điểm. Đây được coi là nền tảng pháp lý quan trọng để tạo ra bước đột phá cho hệ thống GDNN trong thời gian tới.

Trong bối cảnh toàn cầu, nhiều tổ chức quốc tế cảnh báo đến năm 2030, hơn một nửa số công việc ở Đông Nam Á có nguy cơ bị thay thế bởi tự động hóa và AI. Điều này khiến việc đào tạo nguồn nhân lực linh hoạt, sẵn sàng thích ứng với sự biến động công nghệ trở thành thách thức sống còn. Ngân hàng Thế giới (WB) cũng nhấn mạnh Việt Nam cần tập trung vào nhóm “kỹ năng thế kỷ 21” – gồm tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, giao tiếp, làm việc nhóm và năng lực số – để người lao động không bị bỏ lại trong tiến trình hội nhập.
Đặt GDNN trong bối cảnh toàn cầu, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cảnh báo rằng đến năm 2030, có tới 56% công việc ở Đông Nam Á có nguy cơ bị thay thế bởi tự động hóa và AI. Điều này khiến việc đào tạo nguồn nhân lực linh hoạt, sẵn sàng thích ứng với sự biến động công nghệ, trở thành thách thức sống còn. Đây là chìa khóa để lao động Việt Nam tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu và không bị bỏ lại trong tiến trình hội nhập.
Từ những phân tích trên có thể thấy, chính sách dù quan trọng nhưng chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi được cụ thể hóa bằng các giải pháp đồng bộ, thiết thực và phù hợp với bối cảnh mới của thị trường lao động.
Ý kiến của chuyên gia, nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý
Trong quá trình thực hiện loạt bài viết này, tác giả đã gặp gỡ và thu thập được nhiều ý kiến của các chuyên gia, nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý về những giải pháp mang tính trụ cột, nền tảng và định hướng chiến lược cho sự phát triển GDNN trong giai đoạn tới. Có thể tóm lược lại như sau:
Một là, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng AI trong GDNN: Xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về kỹ năng nghề, kết nối cung – cầu lao động; Phát triển hệ thống đào tạo trực tuyến kết hợp mô phỏng 3D, VR/AR, AI hỗ trợ cá nhân hóa; Đầu tư hạ tầng số cho cơ sở GDNN, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Hai là, đổi mới chính sách và cơ chế quản lý: Trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở GDNN, gắn trách nhiệm với chất lượng; Khuyến khích hợp tác công – tư, thu hút đầu tư xã hội hóa; Ban hành chuẩn kỹ năng nghề quốc gia gắn với chuẩn ASEAN và quốc tế, tạo điều kiện di chuyển lao động. TS. Phạm Xuân Khánh cho rằng, việc công nhận GDNN là một cấp học sẽ giúp xóa bỏ tâm lý phân biệt “trung cấp – cao đẳng là lựa chọn thứ hai”, mở rộng dòng chảy người học, song cần song hành với chính sách công nhận văn bằng, thúc đẩy liên thông và cơ hội việc làm.
Ba là, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp: Doanh nghiệp tham gia xây dựng chương trình, giảng dạy và đánh giá kỹ năng; Phát triển mô hình đào tạo kép (dual training) kết hợp học ở trường và thực hành tại doanh nghiệp; Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nhân lực chất lượng cao thông qua hợp tác với trường nghề.
Bốn là, quốc tế hóa và di chuyển lao động kỹ năng: Tích cực tham gia Khung trình độ ASEAN và các hiệp định thừa nhận kỹ năng; Đẩy mạnh xuất khẩu lao động có kỹ năng sang Nhật Bản, Đức, Úc – những thị trường chất lượng cao; Xây dựng thương hiệu “lao động kỹ năng Việt Nam” trên thị trường quốc tế. PGS.TS. Trần Văn Nam, chuyên gia quản lý giáo dục, cho rằng để đạt mục tiêu này, cần phát triển mô hình “học tập linh hoạt suốt đời”, đẩy mạnh chứng chỉ vi mô (micro-credentials) để nhanh chóng trang bị kỹ năng mới cho người lao động trong bối cảnh công nghệ thay đổi.
Ở góc độ khác, TS. Khổng Hữu Lực (Trường CĐ Công nghệ cao Hà Nội) cũng lưu ý cần làm rõ mức độ tích hợp giữa kiến thức văn hóa và nội dung nghề nghiệp trong thiết kế trung học nghề để tránh quá tải cho học sinh.
Năm là, gắn đào tạo nghề với kinh tế xanh và kinh tế số: Mở các ngành nghề mới: năng lượng tái tạo, logistics số, thương mại điện tử, du lịch thông minh; Đào tạo kỹ năng thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững; Khuyến khích nghiên cứu – đổi mới sáng tạo trong GDNN để phục vụ mô hình kinh tế xanh – số. Theo TS. Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam, Việt Nam cần coi kỹ năng xanh và kỹ năng số là trụ cột, vì đây là điều kiện tiên quyết để hội nhập thị trường lao động quốc tế và tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Để hướng tới phát triển giáo dục nghề nghiệp trong tương lai, nhiều chuyên gia cho rằng cần tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống văn bằng và cơ chế phân luồng. Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hội GDNN thành phố Hồ Chí Minh, nhấn mạnh luật cần quy định rõ giá trị của bằng trung học nghề, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho tuyển dụng và liên thông lên các bậc học cao hơn. Bà Hồng Thị Thanh Thủy, Phó Hiệu trưởng Trường CĐ nghề thành phố Hồ Chí Minh, bổ sung rằng phải có quy định cụ thể và minh bạch về giá trị văn bằng, nhằm khắc phục tình trạng một số cơ quan chưa công nhận chứng chỉ hoàn thành chương trình phổ thông trước đây. Ông Đặng Minh Sự, Ủy viên thường vụ Hội GDNN thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra rằng luật mới cần có cơ chế thực thi mạnh mẽ hơn về phân luồng, giúp GDNN giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo nhân lực.
Ngoài ra, nhiều ý kiến cho rằng hệ thống văn bằng và cơ chế phân luồng cần được hoàn thiện. Luật Giáo dục Nghề nghiệp (sửa đổi) khi được thông qua phải quy định rõ giá trị của bằng trung học nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho tuyển dụng và liên thông. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn cũng từng nhấn mạnh, việc chính thức hóa chứng chỉ nghề và cơ chế tích lũy kỹ năng theo mô-đun sẽ là nền tảng của mô hình học tập suốt đời.
Tầm nhìn đến năm 2030 và 2045
Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2026 – 2030 đã thể hiện rõ quyết tâm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người. Trong đó, riêng với lĩnh vực GDNN đã xác định rõ: “Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo…”; “Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.”
Mới đây nhất, ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW Về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đưa ra hệ thống 4 quan điểm chỉ đạo, trong đó riêng đối với lĩnh vực GDNN đã xác định: “Giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao”.
Về mục tiêu phát triển đối với hệ thống giáo dục đại học, GDNN đến năm 2030, Nghị quyết 71-NQ/TW xác định: “Xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp được sắp xếp phù hợp và đầu tư nâng cấp; phấn đấu 100% cơ sở giáo dục đại học và ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia, 20% cơ sở được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á. Tỉ lệ người trong độ tuổi theo học các trình độ sau trung học phổ thông đạt 50%. Tỉ lệ người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%. Tỉ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%, trong đó có ít nhất 6.000 nghiên cứu sinh, 20.000 người học các chương trình tài năng. Chỉ số vốn con người và nghiên cứu đóng góp vào chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) ngang bằng các nước có thu nhập trung bình cao”.
Mục tiêu đến năm 2030, Nghị quyết 71-NQ/TW xác định: “Hệ thống giáo dục và đào tạo tiếp tục được hiện đại hoá, có bước tiến mạnh, vững chắc về tiếp cận, công bằng và chất lượng…”; “chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số HDI đạt trên 0,85; chỉ số vốn con người và nghiên cứu đóng góp vào chỉ số GII đạt trên mức bình quân của các nước có thu nhập trung bình cao”.
Đặc biệt, trong tầm nhìn đến năm 2045, phần liên quan đến GDNN, Nghị quyết 71-NQ/TW xác định: “Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới. Mọi người dân có cơ hội học tập suốt đời, nâng cao trình độ, kỹ năng và phát triển tối đa tiềm năng cá nhân. Nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước, góp phần đưa Việt Nam thành nước phát triển, có thu nhập cao…”
Nghị quyết 71-NQ/TW cũng đã đề ra hệ thống 8 nhiệm vụ, giải pháp nhằm đạo đột phá phát triển giáo dục và đào tạo trong thời gian tới, trong đó đã giành riêng giải pháp thứ 6 về cải cách, hiện đại hoá giáo dục nghề nghiệp, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao. Nội dung chính của nhiệm vụ, giải pháp này gồm:
Một là, tập trung phát triển hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện có bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, đạt chuẩn; lựa chọn đầu tư nâng cấp các cơ sở hoạt động hiệu quả, ưu tiên đầu tư hiện đại cho một số trường cao đẳng chất lượng cao đạt chuẩn quốc tế. Phân cấp mạnh quản lý các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về chính quyền địa phương.
Hai là, cải cách mô hình giáo dục nghề nghiệp, bổ sung cấp trung học nghề tương đương cấp trung học phổ thông; đổi mới mạnh mẽ chương trình, phương thức đào tạo, ứng dụng công nghệ, quản trị chất lượng, bảo đảm hiệu quả, thực chất theo các tiêu chuẩn quốc tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết nhà trường – doanh nghiệp, tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường, nhất là đào tạo kỹ năng nghề trong các lĩnh vực công nghệ cao. Đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục nghề nghiệp từ ngân sách nhà nước.
Ba là, ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước cho đào tạo nhân lực có kỹ năng nghề cao trong các ngành nghề kỹ thuật, công nghệ và phục vụ các chương trình, dự án chiến lược, trọng điểm quốc gia. Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo nghề chất lượng cao cho đồng bào người dân tộc thiểu số ở các ngành nghề phù hợp.
Bốn là, có chính sách thu hút chuyên gia, người lao động tay nghề cao tham gia giảng dạy, hướng dẫn kỹ năng nghề. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Có cơ chế thành lập quỹ đào tạo nhân lực của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp hỗ trợ đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động.
Trong kỷ nguyên số và cách mạng công nghiệp 4.0, GDNN đang bước vào giai đoạn chuyển đổi toàn diện.
Nhìn lại chặng đường 80 năm, giáo dục nghề nghiệp Việt Nam hiện lên như một hành trình song hành cùng lịch sử dân tộc – từ gian khó kháng chiến, kiến thiết hòa bình đến công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Trong những năm đầu lập quốc, GDNN khởi nguồn từ các xưởng quân giới, xí nghiệp kháng chiến, nơi ý chí kiên cường và đôi bàn tay lao động đã hun đúc nên lớp công nhân kỹ thuật đầu tiên, phục vụ trực tiếp cho mục tiêu “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Bước sang thời kỳ xây dựng hòa bình, hệ thống trường nghề dần hình thành, đào tạo hàng vạn công nhân kỹ thuật cho các công trình trọng điểm, đặt nền móng cho công nghiệp hóa đất nước.
Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, GDNN chuyển mình mạnh mẽ: đa dạng hóa ngành nghề, mở rộng xã hội hóa và hợp tác quốc tế. Hàng triệu lao động được đào tạo không chỉ phục vụ sản xuất trong nước mà còn góp phần đưa hình ảnh người thợ Việt Nam ra thế giới thông qua xuất khẩu lao động có tay nghề. Những năm gần đây, quá trình chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu vực – quốc tế đã giúp GDNN nâng cao chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu về nhân lực kỹ năng cao, đóng góp trực tiếp vào tăng năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đặc biệt, trong kỷ nguyên số và cách mạng công nghiệp 4.0, GDNN đang bước vào giai đoạn chuyển đổi toàn diện: áp dụng công nghệ số trong quản lý – đào tạo, phát triển học liệu trực tuyến, mô phỏng thực tế ảo, đẩy mạnh mô hình “học đi đôi với hành” gắn kết chặt chẽ nhà trường – doanh nghiệp. Định hướng phát triển mới nhấn mạnh vào kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo và công nghệ cao, chuẩn bị cho Việt Nam lực lượng lao động không chỉ giỏi tay nghề mà còn sáng tạo, thích ứng nhanh trước biến động toàn cầu.
Những thành quả nổi bật 80 năm qua có thể khái quát: Đào tạo hàng chục triệu công nhân, kỹ thuật viên phục vụ kháng chiến và kiến thiết; Hình thành lực lượng lao động kỹ năng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Cung ứng nhân lực chất lượng cao cho các ngành then chốt: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu lao động; Bước vào thời kỳ mới, GDNN đang chuyển mình theo hướng mở, linh hoạt, hội nhập quốc tế, gắn với chuyển đổi số và kinh tế xanh – bền vững.
Có thể khẳng định, giáo dục nghề nghiệp không chỉ là kênh đào tạo nghề mà còn đồng hành cùng sự nghiệp dựng xây đất nước, trở thành biểu tượng của tinh thần bền bỉ, sáng tạo và khát vọng vươn lên của người lao động Việt Nam. Nhìn về tương lai, GDNN sẽ tiếp tục là “cầu nối” giữa tri thức và sản xuất, giữa người học và doanh nghiệp, giữa Việt Nam và thế giới. Với quyết tâm đổi mới, sự đồng hành của Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội, hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng đến năm 2030 và xa hơn là 2045 – khi Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển – giáo dục nghề nghiệp sẽ tiếp tục giữ vai trò động lực then chốt, góp phần nâng tầm nguồn nhân lực và khẳng định vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
———–
Tài liệu tham khảo:
- Báo cáo chính trị Đại hội XIII: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3734
- Tài liệu và số liệu từ Tổng cục GDNN, Hiệp hội GDNN Việt Nam.
- Một số báo cáo, nghiên cứu của ILO, WB về thị trường lao động và kỹ năng thế kỷ 21.
- https://chinhsachcuocsong.vnanet.vn/luat-giao-duc-nghe-nghiep-sua-doi-day-manh-phan-cap-tang-tinh-lien-thong/64396.html
- https://laodongxahoi.vn/ts-nguyen-chi-truong-ve-dao-tao-nghe-2024.html
- https://giaoduc.net.vn/pgsts-tran-van-nam-giai-phap-gdnn-2024.html
- https://giaoduc.net.vn/truong-dai-hoc-tu-thuc-truong-nghe-gop-y-du-thao-luat-gddh-luat-gdnn-post253338.gd
- https://ilo.org/vietnam-changhee-lee-green-digital-skills-2023.html
- https://daibieunhandan.vn/gop-y-du-thao-luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-giao-duc-can-lam-ro-gia-tri-bang-trung-hoc-nghe-10374213.html
- https://baochinhphu.vn/sua-luat-giao-duc-nghe-nghiep-cai-cach-manh-he-thong-day-nghe-102250709132247994.htm
Trần Hồng Quỳnh – Nhất Nam