Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của giáo dục trong phát triển đất nước, bằng xác lập quan điểm phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong chiến lược phát triển giáo dục quốc gia, phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) thông qua mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, góp phần giải quyết hiệu quả tình trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất của vùng so với các địa bàn khác.

Cách đây gần 80 năm, ngày 3/9/1945, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, khi đề cập đến các nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước công nông non trẻ đầu tiên ở Đông Nam Á, bàn về vai trò quan trọng của giáo dục đối với quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vừa là nhận định, vừa là lời kêu gọi, tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng ta vận dụng phù hợp, sáng tạo vào sự nghiệp phát triển giáo dục nhằm phục vụ quá trình phát triển đất nước.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) – Đại hội đánh dấu đường lối Đổi mới đất nước, sự nghiệp giáo dục cũng bước sang trang mới. Ngày 27/11/1989, tức là chỉ 3 năm sau khi tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế – xã hội miền núi (Nghị quyết số 22-NQ/TW). Lúc bấy giờ, Bộ Chính trị nhận định miền núi là địa bàn rộng lớn, chiếm ¾ diện tích tự nhiên nước ta, là nơi sinh sống lâu đời của phần lớn các DTTS, có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh. Nhưng miền núi trình độ phát triển kinh tế – xã hội còn rất thấp, “tỷ lệ số người mù chữ và thất học còn lớn”[1] nên yêu cầu: “Đổi mới chính sách giáo dục, đào tạo”[2], “mở rộng và củng cố các trường phổ thông dân tộc nội trú”[3], “có chính sách ưu đãi trong tuyển sinh và học bổng, đặc biệt là đối với con em các dân tộc vùng cao”[4].
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và 13 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác dân tộc. Trong Nghị quyết, Ban Chấp hành Trung ương đánh giá: “hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, cụm xã”[5]; đồng thời đánh giá ở nhiều vùng dân tộc và miền núi, “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp”[6]. Từ đó, chỉ đạo nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách là: “Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và chương trình giáo dục miền núi, nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp”[7].
Trong hơn 10 năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn tạo đà cho công cuộc đổi mới toàn diện vùng đồng bào DTTS và miền núi (DTTS&MN) nói chung, trong đó, phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS nói riêng là một trong những trọng tâm, trọng điểm, mang tầm chiến lược quốc gia. Bởi lẽ đồng bào DTTS chủ yếu sinh sống ở vùng núi cao, biên giới, nơi phên dậu Tổ quốc, giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước… Tuy vậy, nhiều năm qua, trong 5 “nhất” ở vùng đồng bào DTTS&MN so với các vùng khác của cả nước luôn tồn tại vấn đề chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định nhiệm vụ: “Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng DTTS”. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Nghị quyết xác định quan điểm chỉ đạo: “Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng DTTS, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách”.
Tổng kết Nghị quyết 24 (khoá IX), ngày 30/10/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX “Về công tác dân tộc trong tình hình mới”. Trong 8 nhiệm vụ và giải pháp của Kết luận, một lần nữa đề ra nhiệm vụ, giải pháp: “Nâng cao chất lượng và mở rộng hệ thống các trường PTDTNT, bán trú; hỗ trợ việc ăn, ở cho học sinh, sinh viên vùng địa bàn đặc biệt khó khăn…”. Bộ Chính trị giao Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo xây dựng “Ðề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN” và “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển bền vững kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021 – 2030”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định phương hướng, nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc”.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cùng với việc tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Ban Bí thư khóa XII ban hành Kết luận số 51-KL/TW, ngày 30/5/2019 về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong Kết luận, Ban Bí thư yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp nghiên cứu chuyển đổi mô hình trường dự bị đại học và trường PTDTNT phù hợp với điều kiện mới, từng bước bảo đảm sự công bằng, bình đẳng trong giáo dục. Đồng thời tăng cường đầu tư, phát triển nhanh trường, cụm lớp cho cấp học mầm non; bảo đảm đủ trường, lớp cho học sinh học ngày 2 buổi, nhất là ở vùng khó khăn, trước hết tập trung cho giáo dục mầm non, tiểu học”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã phát triển tư duy về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng tiếp cận mới, đó là thay “phát triển” bằng “nâng cao” chất lượng nguồn nhân lực và thêm cụm từ “phát triển con người”. Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2021 – 2030 cũng nêu rõ: “Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 đột phá chiến lược. Giáo dục dân tộc được quan tâm đặc biệt nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn đời sống ở vùng đồng bào DTTS&MN, thông qua các nhiệm vụ: “giảm tỉ lệ mù chữ, bỏ học ở miền núi”[8] trong giai đoạn 2021 – 2025. Qua giáo dục, người DTTS được trang bị kiến thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết để chuẩn bị cho việc tham gia vào thị trường lao động; phát hiện, nuôi dưỡng và phát huy tài năng, từ đó cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng DTTS&MN nói riêng, đất nước nói chung. Phát triển giáo dục dân tộc là yếu tố then chốt để nâng cao năng suất lao động của đồng bào DTTS.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều văn bản liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới. Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: “… Chú trọng phát triển mạng lưới trường lớp, nhất là ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào DTTS và miền núi, biên giới, hải đảo…”.
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12/8/2024 về thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với nhiệm vụ, giải pháp: “Ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo”.
Bước vào giai đoạn cuối nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, nhiều chủ trương, đường lối, quyết sách mới của Đảng về phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bào DTTS&MN được củng cố, rà soát và ban hành kịp thời nhằm tạo hành lang pháp lý quan trọng cho phát triển giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nơi đây; đồng thời rút ngắn khoảng cách về thụ hưởng chính sách giáo dục giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn, giữa vùng đồng bằng với vùng DTTS&MN, tạo tiền đề quan trọng để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, sánh vai với cường quốc năm châu như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khát vọng của toàn dân tộc.
Trong phiên họp ngày 28/02/2025, Bộ Chính trị quyết định miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên phạm vi cả nước. Thời điểm thực hiện từ đầu năm học mới 2025 – 2026. Chủ trương miễn học phí sẽ mang lại lợi ích trực tiếp cho người học và gia đình trong cả nước, trong đó có các gia đình vùng đồng bào DTTS&MN.
Điểm lại để thấy từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, trải qua gần 40 năm, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của giáo dục trong phát triển đất nước, bằng xác lập quan điểm phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Lịch sử đã chứng minh một dân tộc (cả theo nghĩa rộng là quốc gia hay theo nghĩa hẹp chỉ một tộc người) muốn đứng vững, hội nhập và vươn lên luôn phải bắt đầu từ con người, mà con người chỉ có thể mạnh mẽ, sáng tạo, có bản lĩnh khi được trang bị tri thức, đạo đức và kỹ năng thông qua giáo dục.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khoa học công nghệ bùng nổ, lợi thế tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt, nguồn lực con người trở thành yếu tố quyết định sự phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia. Vì vậy, giáo dục không chỉ còn là một lĩnh vực xã hội mà trở thành động lực then chốt thúc đẩy mọi lĩnh vực khác, từ kinh tế, quốc phòng, an ninh đến văn hóa, đối ngoại. Nói cách khác, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, cho sức mạnh nội sinh của dân tộc – một chiến lược mang tầm nhìn xa và có ý nghĩa bền vững. Một xã hội có trình độ dân trí cao, người dân được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng sẽ có khả năng khai phóng để tham gia chủ động, tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trên quan điểm đó của Đảng, tại Khoản 1 Điều 61 Luật Giáo dục quy định: “Nhà nước thành lập trường PTDTNT, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học cho người học là người DTTS, người học thuộc gia đình định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn”.
Các chính sách ưu tiên phát triển loại hình trường PTDTNT góp phần giảm thiểu khó khăn cho “vùng trũng” về giáo dục. Có thể kể đến các Nghị định số 66/2025/NĐ-CP; Nghị định số 84/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục. Theo đó, học sinh (HS) trường PTDTNT được miễn học phí, được hưởng học bổng bằng 80% mức lương tối thiểu chung/HS/tháng và được hưởng 12 tháng/năm; được hưởng các chế độ hỗ trợ khác như: trang cấp hiện vật, học phẩm, sách giáo khoa, tiền tàu xe, tiền điện nước, bảo hiểm y tế, tiền tổ chức tết nguyên đán, tết dân tộc… Trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên các DTTS có số dân dưới 10.000 người học tại trường PTDTNT, tùy từng đối tượng, được hưởng chính sách hỗ trợ học tập hằng tháng từ 30% đến 100% mức lương tối thiểu chung (Nghị định số 57/2017/NĐ-CP). Những hỗ trợ đó không phải là sự ban phát, mà là đầu tư cho tương lai, giúp học sinh DTTS ổn định tư tưởng, yên tâm đến trường học tập.
Đặc biệt, trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I từ 2021 – 2025 thiết kế riêng Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, với Tiểu dự án 1: Đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường PTDTNT, trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT), trường phổ thông có học sinh ở bán trú và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào DTTS đã cho thấy vai trò quan trọng của loại hình trường chuyên biệt này trong hệ thống giáo dục quốc dân ở vùng DTTS&MN.
———-
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội 2013, tr. 328
[2] Sđd tr.345
[3] Sđd tr.346
[4] Sđd tr.346
[5] Sđd tr.418
[6] Sđd tr.419
[7] Sđd tr.424
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, tập 2, tr. 56
———-
Mời đọc:
– Bài 2: Trường phổ thông dân tộc nội trú – Mũi nhọn giáo dục dân tộc
– Bài cuối: Chấn hưng giáo dục ở vùng biên – Sẵn sàng cho Kỷ nguyên mới
Hoàng Thị Phương Liên
(Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc và Tôn giáo)