Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo, tự chủ giáo dục nghề nghiệp (GDNN) được xem là bước đi tất yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tế của thị trường lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, quá trình triển khai vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt ở khía cạnh tài chính và năng lực quản trị.
Nhiều trường nghề đã chủ động đổi mới đào tạo, mở ngành gắn với nhu cầu doanh nghiệp, thu hút xã hội hóa để đầu tư xưởng thực hành (ảnh minh hoạ)
Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị khẳng định sự thay đổi căn bản trong tư duy của Đảng về quản trị giáo dục. Đó là xóa bỏ quan niệm “chỉ những cơ sở tự bảo đảm tài chính mới được hưởng quyền tự chủ”, thành tự chủ là một quyền mang tính nguyên tắc của mọi cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bất kể quy mô hay năng lực tài chính.
Tự chủ không chỉ giới hạn ở vấn đề tài chính, mà còn thể hiện ở việc chủ động xây dựng và triển khai chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy, tổ chức bộ máy, phát triển đội ngũ, mở rộng hợp tác quốc tế và gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, thị trường lao động.
Thực hiện cơ chế tự chủ, nhiều trường nghề đã chủ động đổi mới đào tạo, mở ngành gắn với nhu cầu doanh nghiệp, thu hút xã hội hóa để đầu tư xưởng thực hành. Một số trường còn triển khai đào tạo song hành, liên kết quốc tế, giúp sinh viên có việc làm ngay sau tốt nghiệp. Tuy vậy, khó khăn lớn nhất hiện nay lại là tài chính.
Không ít trường phụ thuộc vào học phí và ngân sách Nhà nước, khi nguồn hỗ trợ giảm thì gặp khó trong việc duy trì hoạt động và đầu tư mới. Bên cạnh các bước tiến, hệ thống giáo dục nghề nghiệp còn nhiều hạn chế, như quyền tự chủ còn “nửa vời”, nhiều trường phải chờ xin phép trong những việc lẽ ra có thể chủ động, sự sáng tạo bị bó hẹp, trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng, dữ liệu thiếu minh bạch, cơ chế giám sát còn hình thức…
Cụ thể, các trường vùng sâu – vùng xa càng khó thu hút doanh nghiệp hợp tác, nguồn thu hạn chế. Bên cạnh đó, năng lực quản trị của nhiều trường chưa theo kịp cơ chế tự chủ. Việc xây dựng chiến lược phát triển, quản lý tài chính hay quảng bá tuyển sinh vẫn còn yếu, dẫn đến bị động trong cạnh tranh.
Chuyển đổi sang cơ chế tự chủ đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải có kỹ năng hoạch định chiến lược, quản lý tài chính, marketing giáo dục… nhưng thực tế nhiều trường vẫn vận hành theo lối mòn, thiếu linh hoạt. Ngoài ra, tâm lý “chuộng đại học” của các bậc phụ huynh và học sinh cũng khiến tuyển sinh nghề khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu.
Đại diện một số trường Cao đẳng, Trung cấp nghề cho rằng, tự chủ là hướng đi đúng nhưng cần lộ trình và chính sách hỗ trợ. Nhà nước nên tiếp tục cấp kinh phí cho những ngành ít người học nhưng xã hội cần, đồng thời có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia mạnh hơn vào đào tạo. Đặc biệt là các ngành học ít người đăng ký nhưng xã hội cần, như cơ khí, chế tạo, nông nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ hơn vào đào tạo nghề, bởi chính doanh nghiệp là bên thụ hưởng nguồn nhân lực.
Một số trường cũng đề xuất tăng quyền tự chủ trong việc xây dựng mức học phí, mở ngành, liên kết quốc tế và tuyển dụng giảng viên, để tạo sự linh hoạt trong cạnh tranh và nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, đi cùng với đó cần hệ thống kiểm định chặt chẽ để bảo đảm chất lượng. Tự chủ giáo dục nghề nghiệp (GDNN)được kỳ vọng sẽ tạo cú hích nâng cao chất lượng nhân lực, nhưng để thành công, cần sự đồng hành của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, thay vì để các trường tự xoay xở một mình.
Theo ông Trương Anh Dũng, Cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tự chủ GDNN hiện mới trong giai đoạn đầu. Cơ chế chính sách về tự chủ chưa đồng bộ, còn chồng chéo, thiếu nhất quán giữa các lĩnh vực. Nhiều cơ sở GDNN vẫn phụ thuộc đáng kể vào ngân sách, trong khi nguồn thu sự nghiệp còn hạn hẹp do quy mô tuyển sinh và khả năng huy động xã hội hóa còn thấp. Năng lực quản trị nội bộ của không ít cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, bộ máy còn cồng kềnh, thiếu linh hoạt; trách nhiệm giải trình nhiều nơi chưa được thực thi thực chất.
Báo cáo không đầy đủ của 34/63 địa phương cũ cho thấy, đến năm 2024 trong số 262 cơ sở GDNN công lập được phê duyệt phương án tự chủ, có 30% cơ sở vẫn thuộc nhóm do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (nhóm 4), trong khi 61% cơ sở bảo đảm được một phần chi thường xuyên (nhóm 3). Chỉ có 5% cơ sở tự bảo đảm chi thường xuyên (nhóm 2) và 4% cơ sở tự bảo đảm toàn bộ cả chi thường xuyên và chi đầu tư (nhóm 1).
Ông Trương Anh Dũng nhấn mạnh: “Những con số này phản ánh quá trình thực hiện tự chủ tài chính còn đang ở giai đoạn chuyển tiếp, với phần lớn các cơ sở vẫn phụ thuộc vào ngân sách ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ cơ sở đạt mức tự chủ tài chính toàn diện (nhóm 1) còn rất thấp, cho thấy khả năng tự chủ toàn phần chưa phổ biến. Tuy vậy, tỷ lệ cơ sở ở nhóm 3 chiếm đa số cho thấy đang có sự dịch chuyển nhất định trong hệ thống GDNN theo hướng tự chủ dần từng bước, cần được tiếp tục theo dõi và hỗ trợ về thể chế, năng lực tổ chức để thúc đẩy tiến trình này hiệu quả hơn”.
Lý giải thực tế trên, ông Dũng đề cập nhiều nguyên nhân, trong đó có cơ chế chính sách, và cả do luật. Luật GDNN hiện hành (năm 2014) đang chủ yếu tiếp cận và thể chế theo quan điểm tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDNN. “Có thể thấy pháp luật hiện hành về GDNN quy định quyền tự chủ một số hoạt động cơ bản của cơ sở GDNN (như mở ngành, nghề đào tạo) phải dựa trên mức độ tự chủ tài chính”, ông Dũng cho biết.
Tự chủ giáo dục nghề nghiệp vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Nếu thực hiện thành công, các trường nghề sẽ có điều kiện phát triển bền vững, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng để đi đến thành công, cần sự đồng hành của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, thay vì để các trường đơn độc trên hành trình tự chủ.
Quang Trung