LTS: Từ những xưởng quân giới trong kháng chiến, nơi tiếng búa, tiếng đe hòa cùng nhịp tim của đất nước, đến những nhà máy thông minh vận hành bằng trí tuệ nhân tạo và công nghệ 4.0 hôm nay, hành trình của giáo dục nghề nghiệp Việt Nam là một phần không thể tách rời của lịch sử dựng nước và giữ nước. Suốt tám thập kỷ qua, lực lượng công nhân kỹ thuật và những người thợ lành nghề không chỉ làm ra của cải vật chất, mà còn góp phần định hình bản sắc của nền sản xuất Việt Nam – cần cù, sáng tạo, bền bỉ trước mọi thử thách. Dưới ánh sáng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục nghề nghiệp đã không ngừng đổi mới, thích ứng với những biến động của thời đại, từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trường, từ sản xuất thủ công đến sản xuất số hóa, xanh và thông minh. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025), Tạp chí Nghề nghiệp và Cuộc sống trân trọng giới thiệu loạt 5 bài “Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam – 80 năm vững bước cùng đất nước”. Mỗi bài sẽ là một lát cắt lịch sử, một câu chuyện từ những con người thật – những người đã học nghề, dạy nghề và sống trọn đời với nghề – để thấy rằng, đằng sau từng công trình, từng sản phẩm, là một nền tảng giáo dục nghề nghiệp kiên cường, đồng hành cùng sự phát triển phồn vinh của đất nước. |
Trong ký ức lịch sử của dân tộc, những năm tháng kháng chiến chống thực dân, đế quốc không chỉ là câu chuyện của chiến trường, mà còn là câu chuyện của những “mặt trận thầm lặng” nơi hậu phương. Giữa bom đạn, trong những lán tre, hầm bí mật hay xưởng cơ khí dã chiến, biết bao bàn tay người thợ đã miệt mài chế tạo vũ khí, sửa chữa máy móc, đúc từng chiếc đinh, tiện từng chi tiết máy để phục vụ tiền tuyến. Đó chính là những “ngôi trường nghề” không giáo án, không bảng đen, nhưng đào tạo nên lớp công nhân kỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Bối cảnh lịch sử và nhu cầu cấp bách về nhân lực kỹ thuật
Cuối thế kỷ 19 đã hình thành tổ chức đào tạo chính quy tại một số trường dạy nghề như trường kỹ nghệ thực hành tại Hà Nội (1898), trường kỹ nghệ thực hành Huế (1889) và trường Bá nghệ Sài Gòn (1889)… Đầu thế kỷ 20 những cơ sở dạy nghề đầu tiên được thành lập với nhiều loại hình khác nhau như: lớp dạy nghề tại xí nghiệp, trường nghề… Thời kỳ này số lượng học sinh rất ít, chỉ đủ cung cấp cho những ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp khai thác tài nguyên, nhằm đem lại lợi nhuận cho thực dân Pháp.

Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, mặc dù chưa có điều kiện phát triển, nhưng công tác dạy nghề đã kịp thời đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ quốc phòng, y tế, nông nghiệp, sư phạm… theo hình thức trường lớp nhỏ, ngắn hạn, phân tán trong chiến khu, vùng tự do, vừa làm vừa học, coi trọng thực hành, gắn với thực tiễn, phù hợp với hoàn cảnh “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” (1).
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước bước vào giai đoạn vừa kiến thiết, vừa kháng chiến. Nền kinh tế kiệt quệ sau hàng chục năm bị thực dân Pháp bóc lột, cơ sở vật chất gần như bị tàn phá. Trong bối cảnh đó, nhu cầu có đội ngũ công nhân kỹ thuật để phục hồi sản xuất và đảm bảo hậu cần cho kháng chiến trở nên vô cùng cấp bách.
Trước nhu cầu cấp bạch đó, ở chiến khu Việt Bắc và các vùng căn cứ kháng chiến, những xưởng quân giới ra đời. Tại đây, các “người thầy” là thợ cả, cán bộ kỹ thuật từ thời Pháp thuộc, hoặc bộ đội được cử đi học ở nước ngoài, truyền dạy lại nghề cho lớp thanh niên mới. Không có giáo trình chuẩn, họ học bằng cách “cầm tay chỉ việc”, “vừa học vừa làm”, lấy thực tiễn sản xuất làm bài học (2).
Giai đoạn 1945 – 1954, một số trường công nhân kỹ thuật và lớp đào tạo nghề đã được tổ chức trong các xí nghiệp, xưởng quân giới (như Xưởng Quân giới Liên khu 3, Trường Công nhân cơ khí Hà Nội), vừa dạy nghề cơ khí, vừa tham gia sản xuất phục vụ kháng chiến.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế. Nhà nước tiến hành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965), tập trung công nghiệp hóa bước đầu. Đây là thời kỳ đánh dấu sự phát triển rõ nét của hệ thống trường dạy nghề: Mỗi ngành, mỗi bộ chủ quản đều có trường công nhân kỹ thuật riêng (cơ khí, điện, than – khoáng sản, dệt may…); Các hợp tác xã và nông trường mở lớp đào tạo thợ nông cơ, thợ chế biến nông sản.

Giai đoạn 1955 – 1975, miền Bắc đã hình thành mạng lưới trường trung cấp và công nhân kỹ thuật rộng khắp, đào tạo hàng vạn công nhân kỹ thuật và cán bộ trung cấp phục vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (3).
Ở miền Nam, 1954 – 1975, hệ thống đào tạo nghề chịu ảnh hưởng mô hình phương Tây, rất chú trọng thực hành, nhưng quy mô còn hạn chế (4).
Đặc điểm đào tạo nghề thời kỳ 1945 – 1975
Một là, gắn chặt với nhiệm vụ chính trị và sản xuất: Đào tạo nghề không tách rời mục tiêu kháng chiến và xây dựng kinh tế.
Hai là, phương pháp truyền nghề trực tiếp: Người học học ngay tại nơi sản xuất, do các thợ cả hoặc kỹ sư hướng dẫn.
Ba là, ngành nghề chủ đạo: Cơ khí chế tạo, sửa chữa ô tô – xe máy, đóng tàu, điện dân dụng và công nghiệp, may mặc, xây dựng, nông cơ.
Bốn là, tinh thần tự lực, sáng tạo: Dù thiếu máy móc hiện đại, nhiều sáng kiến kỹ thuật ra đời từ chính các phân xưởng và được áp dụng rộng rãi (5).
Đặt nền móng cho giáo dục nghề nghiệp hiện đại
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm chia làm hai miền. Ở miền Bắc ngành dạy nghề đã vươn lên nhanh chóng và có sự hỗ trợ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa đã đáp ứng cả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và thống nhất đất nước. Ở miền Nam với yêu cầu du nhập và đầu tư tư bản vào các xí nghiệp ở các thành phố, các khu công nghiệp như Biên Hòa, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định… đòi hỏi một lực lượng lớn lao động kỹ thuật phục vụ cho bộ máy chiến tranh của Mỹ va Ngụy quyền Sài Gòn. Do yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam, ngày 09/10/1969 Chính phủ ban hành Nghị định số 200/CP về việc thành lập Tổng cục Đào tạo công nhân kỹ thuật trực thuộc Bộ Lao động. Đây là mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành, phát triển lớn mạnh của ngành dạy nghề (1).
Ông Phạm Văn Giữa (80 tuổi, xã Minh Thọ, Hưng Yên), nguyên cán bộ Ty Giao thông vận tải tỉnh Bắc Thái (cũ), kể lại: “Những năm sau giải phóng, đất nước còn bộn bề khó khăn, máy móc thiết bị chủ yếu là viện trợ từ các nước anh em. Lúc ấy, chúng tôi được cử đi học các lớp sửa chữa cơ khí, lái xe, bảo trì cầu đường do Ty tổ chức. Học vừa lý thuyết, vừa cầm tay chỉ việc ngay tại công trường. Nhờ được đào tạo nghề, tôi cùng anh em có thể vận hành, sửa chữa xe tải, máy ủi, cần cẩu – phục vụ thi công những tuyến đường chiến lược nối liền các tỉnh miền núi phía Bắc. Đó là niềm tự hào của một thế hệ được đào tạo để xây dựng lại đất nước từ đống tro tàn của chiến tranh”.
Ông Vũ Cường (81 tuổi, phường Từ Liêm, Hà Nội), nguyên cán bộ công nhân xưởng Quân giới Việt Bắc, nhớ lại: “Ngày ấy, chúng tôi được giao nhiệm vụ tiện nòng súng từ thép thu hồi. Máy tiện chỉ là loại cổ, phải dùng tay để điều chỉnh, nhưng ai cũng hăng say. Học nghề trong tiếng máy, tiếng bom, nhưng kiến thức thì nhớ mãi”.

Bà Trần Thị Vân (tỉnh Phú Thọ), thợ may xưởng quân nhu Liên khu 4, kể: “Chúng tôi vừa học may, vừa may quân phục cho bộ đội. Ban ngày học kỹ thuật cắt, tối về ráp áo quần. Học trong kháng chiến là học để làm ngay, để phục vụ ngay, không ai nghĩ tới bằng cấp, chỉ nghĩ tới làm sao sản phẩm ra kịp chuyến hàng cho tiền tuyến”.
Lực lượng công nhân kỹ thuật được đào tạo trong giai đoạn này không chỉ đáp ứng nhu cầu khẩn cấp của chiến tranh và sản xuất, mà còn trở thành nòng cốt của ngành công nghiệp non trẻ sau này. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ chống chiến tranh phá hoại (1965 – 1972), chính họ là những người trực tiếp sửa chữa cầu đường, nhà máy, khôi phục sản xuất ngay sau mỗi trận bom.
Dù điều kiện còn vô cùng hạn chế, giai đoạn 1945 – 1975 đã hình thành những nguyên tắc cơ bản của giáo dục nghề nghiệp Việt Nam: Đào tạo gắn với nhu cầu xã hội và nhiệm vụ quốc gia; Kết hợp học với hành, lý thuyết với thực tiễn; Đề cao tinh thần trách nhiệm, kỷ luật và sáng tạo của người học nghề.
Những bài học từ thời kỳ này vẫn còn nguyên giá trị cho giáo dục nghề nghiệp hiện nay: đào tạo phải gắn với thực tiễn sản xuất, người thợ phải vừa giỏi nghề vừa có ý thức công dân và tình yêu Tổ quốc.
Mốc 1965: Miền Bắc có 653.959 công nhân trong khu vực công nghiệp, là lực lượng nòng cốt cho công cuộc công nghiệp hóa (6).
————————
Tài liệu tham khảo:
- Bộ LĐTB&XH (2020). Dạy nghề – 45 năm phát triển. Truy cập tại: https://mcc.molisa.gov.vn/day-nghe-45-nam-phat-trien/88/32
- Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam (2020). Một số vấn đề về giáo dục nghề nghiệp Việt Nam giai đoạn 1945–1975. Truy cập tại: https://vjes.vnies.edu.vn/journal/article/view/516
- Bùi Minh Hiền (2008). Lịch sử Giáo dục Việt Nam (Chương về kháng chiến và CNXH). Truy cập tại: https://saomaicenter.org/en/node/1079
- Nguyễn Thư Hà (2021). Biến đổi cơ cấu xã hội miền Bắc 1954–1975. Truy cập tại: https://his.ussh.vnu.edu.vn/vi/news/nguyen-thu-ha/bien-doi-co-cau-xa-hoi-mien-bac-trong-gia-doan-lich-su-1954-1975-5806.html
- Trần Minh Quân & Lê Văn Anh (2020). Giáo dục nghề nghiệp và học nghề nghiệp. Truy cập tại: https://nvspdn.files.wordpress.com/2020/10/giao-duc-nghe-nghiep-va-giao-duc-hoc-nghe-nghiep.pdf
- Nguyễn Thư Hà (2021). Biến đổi cơ cấu xã hội miền Bắc 1954–1975. Truy cập tại: https://his.ussh.vnu.edu.vn/vi/news/nguyen-thu-ha/bien-doi-co-cau-xa-hoi-mien-bac-trong-gia-doan-lich-su-1954-1975-5806.html
Nhất Nam
Đón đọc:
– Bài 2: Xây dựng đất nước trong cơ chế bao cấp – Mạng lưới trường nghề rộng khắp (1975 – 1986)
– Bài 3: Giáo dục nghề nghiệp – Xây dựng nền tảng cho công cuộc đổi mới (1986 – 1999)
– Bài 4: Tích cực chuyển mình, khẳng định vị thế quốc gia, hội nhập quốc tế (2000 – 2025)
– Bài cuối: Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2030, tầm nhìn 2045