08/08/2025 10:43:30

Việt Nam bảo đảm an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau

Trong bối cảnh thế giới đối mặt với nhiều bất ổn – từ xung đột địa chính trị, khủng hoảng kinh tế cho đến biến đổi khí hậu và nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng đang tạo ra rất nhiều thách thức cho mỗi quốc gia thì ở Việt Nam, hệ thống chính sách an sinh xã hội với phương châm: “phát triển vì con người, không để ai bị bỏ lại phía sau”đang được triển khai nhất quán, mạnh mẽ, bằng nguồn lực đầu tư thực chất và kết quả có thể đo lường. Thực tiễn sinh động ấy là minh chứng bác bỏ luận điệu xuyên tạc Việt Nam “bỏ rơi” người yếu thế, “không bảo đảm nhân quyền”.

Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát được tăng tốc triển khai trên toàn quốc.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chính sách an sinh xã hội càng được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm, chú trọng. An sinh xã hội luôn là một trong những nội dung được đề cập toàn diện, xuyên suốt trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng ta nhằm thực hiện chủ trương, chính sách kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, coi đây vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển bền vững đất nước. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã nhận định:“Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”[1].

Trên quan điểm của Đảng, các thành tố nội hàm của an sinh xã hội ngày càng được mở rộng và sâu sắc hơn, được hiện thực hoá bằng những chương trình cụ thể, bao trùm. Hiện nay, ở Việt Nam có bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội: (i) Chính sách đảm bảo việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo nhằm hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro trên thị trường lao động thông qua các chính sách đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, tín dụng, tạo việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo đơn chiều, đa chiều, bền vững. (ii) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro về sức khỏe khi ốm đau, tai nạn, tuổi già và khi bị thất nghiệp thông qua các hình thức, cơ chế bảo hiểm xã hội để bù đắp một phần thu nhập bị mất hoặc bị suy giảm. (iii) Chính sách trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ đột xuất và hỗ trợ thường xuyên cho người dân khắc phục các rủi ro khó lường, vượt quá khả năng kiểm soát như mất mùa, đói nghèo. (iv) Chính sách dịch vụ xã hội cơ bản – trụ cột an sinh xã hội nhằm hỗ trợ người dân tiếp cận hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu bao gồm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin truyền thông, trợ giúp pháp lý.

Nhận diện một số luận điệu xuyên tạc về chính sách an sinh xã hội của Việt Nam

Thời gian qua, trên không gian mạng và một số diễn đàn quốc tế vẫn tồn tại những luận điệu cố tình bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận thành quả công tác an sinh xã hội của Việt Nam. Họ cho rằng Việt Nam “chỉ lo phát triển kinh tế”, không đảm bảo công bằng xã hội, “phân biệt đối xử với người nghèo, người dân tộc thiểu số”…

Đối với lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo: Họ cho rằng thành tựu về xoá đói giảm nghèo của Việt Nam là “tự vẽ lên”, “không có thật”; những con số về giảm nghèo chỉ là “sản phẩm của tuyên truyền”, không phản ánh đúng thực tế đời sống của người dân. Họ lợi dụng một số trường hợp người dân còn gặp khó khăn trong cuộc sống (còn ở nhà tạm, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp…), rồi thổi phồng những vấn đề này, coi đó là đại diện cho toàn bộ bức tranh kinh tế – xã hội của Việt Nam, từ đó bôi nhọ Đảng, Nhà nước Việt Nam,…

Đối với chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế – hai trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia: Một trong những luận điệu phổ biến của các thế lực thù địch là phủ nhận những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc mở rộng độ bao phủ và nâng cao quyền lợi của người dân. Họ cũng thường xuyên xuyên tạc về bản chất và mục tiêu của các quỹ an sinh xã hội. Thay vì nhìn nhận bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế thể hiện tính nhân văn và trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống người dân, thì các thế lực chống đối lại vu khống rằng đây là “công cụ thu tiền dân”, “quỹ bị thất thoát” hoặc “tiền đóng góp không được sử dụng hiệu quả”…

Trong lĩnh vực lao động, việc làm: Các thế lực thù địch vẫn không ngừng sử dụng các luận điệu xuyên tạc nhằm phủ định những thành quả của chính sách lao động việc làm, gây hoài nghi, bất mãn trong đội ngũ công nhân, người lao động, làm xói mòn niềm tin của họ vào chính sách của Đảng, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Họ thổi phồng những khó khăn mang tính cục bộ như tình trạng lao động mất việc do biến động kinh tế toàn cầu, hoặc những vụ việc tranh chấp lao động đơn lẻ, rồi quy chụp thành vấn đề có tính hệ thống, cho rằng chính sách lao động của Việt Nam là “thất bại”, “không hiệu quả”, hay “không đảm bảo quyền lợi cho người lao động”…

“Không để ai bị bỏ lại phía sau” là “mệnh lệnh trái tim” của mỗi người Việt Nam

Khẩu hiệu “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, lần đầu tiên được người đứng đầu Chính phủ Việt Nam phát ngôn ngày 17/10/2020 tại Lễ phát động “Cả nước chung tay vì người nghèo” do Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam tổ chức. Từ đó đến nay, “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” đã trở thành câu khẩu hiệu chung cho cả hệ thống chính trị, các tầng lớp xã hội và mỗi đơn vị, tổ chức, cá nhân; là sự đồng cảm, tình thương yêu đùm bọc và là “mệnh lệnh trái tim” của mỗi người Việt Nam.

Kết quả thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

– Tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM 79,3%/ chỉ tiêu 80%, tăng 10,6% so với cuối năm 2021; Tỷ lệ xã đạt NTM nâng cao là 42,4%/ chỉ tiêu 40%, tăng hơn 5 lần so với cuối năm 2021; Tỷ lệ xã đạt NTM kiểu mẫu là 12,3%/ chỉ tiêu 10%, tăng hơn 17 lần so với cuối năm 2021.

– Tỷ lệ đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM là 51%/ chỉ tiêu 50% (tăng 53% so với cuối năm 2021); Tỷ lệ huyện NTM nâng cao là 20%/ chỉ tiêu 20% (tại thời điểm cuối năm 2021 chưa có huyện NTM nâng cao).

– Đã có 12 tỉnh được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM/ chỉ tiêu 15 tỉnh, tăng 08 tỉnh so với cuối năm 2021.

(Nguồn: Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025: Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025)

Quan trọng là kết quả thực hiện các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam có thể đo đếm, được người dân trong nước đồng lòng hưởng ứng và thế giới ghi nhận. Thí dụ trước năm 2015, các chính sách về xoá đói giảm nghèo được thực hiện đối với từng nhóm đối tượng riêng lẻ. Giai đoạn 2016 – 2020, chính sách xoá đói giảm nghèo được mở rộng thành đa chiều theo xu hướng chung của các nước trên thế giới; là phương pháp tiếp cận mới, tiến bộ hơn, có tính nhân văn, tác động toàn diện hơn đến người nghèo. Giai đoạn 2021 – 2025, không còn dùng khái niệm “xoá đói” (vì không còn hộ đói), mà tập trung vào khái niệm “giảm nghèo theo hướng bền vững”; đồng thời, chính sách an sinh xã hội nói chung từ chỗ “hỗ trợ” đã được thiết kế mở rộng theo hướng “bao phủ, bao trùm” toàn dân. Người dân từ vai trò “thụ hưởng” đã chuyển sang thành “chủ động tham gia”.

Kết quả thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững

– Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2024 là 1,93%, giảm 3,27% so với cuối năm 2022, giảm bình quân 1,03%/năm (đạt mục tiêu giao giảm 1-1,5%/năm).

– Tỷ lệ xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng khó khăn là 35,20% (19/54 xã)/chỉ tiêu 30%.

– Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dưới 16 tuổi, giảm còn 25,42%/chỉ tiêu dưới 34%.

– Đã triển khai trên 10.500 mô hình sinh kế/chỉ tiêu trên 1.000 mô hình (vượt xa mục tiêu).

– Hỗ trợ kết nối việc làm thành công cho trên 134.000 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo/chỉ tiêu là tối thiểu 100.000 lao động, vượt 34%.

(Nguồn: Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025: Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.)

Việt Nam đã và đang triển khai đồng bộ 3 chương trình mục tiêu quốc gia: (1) Giảm nghèo bền vững; (2) Xây dựng nông thôn mới; (3) Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mỗi chương trình là sự tích hợp của hàng trăm chương trình, dự án, chính sách có liên quan. Cả ba chương trình đều có chung mục tiêu: Thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao mức sống của người dân, đặc biệt là nhóm yếu thế, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo. Đây không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là tuyên ngôn nhân văn trong thực tiễn phát triển quốc gia.

Mới đây nhất, Chương trình xoá nhà tạm, nhà dột nát được tăng tốc triển khai trên toàn quốc bắt đầu từ ngày 01/10/2024, mục tiêu ban đầu phấn đấu đến ngày 31/12/2025 sẽ xoá 153.000 căn nhà tạm, nhà dột nát. Tuy nhiên, với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sau nhiều lần điều chỉnh, Chính phủ đã hạ quyết tâm hoàn thành Chương trình này vào ngày 31/8/2025, sớm hơn 2 tháng so với mục tiêu ban đầu.

Kết quả thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền núi (Có 6/9 nhóm mục tiêu cơ bản đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra):

– Tỷ lệ giảm nghèo vùng đồng bào DTTS đạt bình quân 3,4%, dự kiến cả giai đoạn đạt 3,2% (đạt so với mức trên 3% mục tiêu kế hoạch giao).

– Thu nhập bình quân của người DTTS đạt bình quân 43,4 triệu đồng, tăng 3,1 lần so với năm 2020; dự kiến hết giai đoạn đạt 45,9 triệu đồng tăng 3,3 lần so năm 2020 (mục tiêu tăng trên 2 lần).

– Mục tiêu về công tác giáo dục: Tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt 99,5%; học sinh trong độ tuổi tiểu học đến trường đạt 99,2%; Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi học trung học cơ sở đến trường đạt 96,9%; Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi học trung học phổ thông đến trường đạt 78,3%; Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông đạt 893,9%.

– Mục tiêu lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người DTTS và đặc thù vùng đồng bào DTTS và MN đạt bình quân 54,8%, dự kiến cả giai đoạn đạt 57,8% (mục tiêu >50%).

– Mục tiêu về Bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc: Tỷ lệ thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng đạt 93,5%; Tỷ lệ thôn có đội văn hóa, văn nghệ (CLB) truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng đạt 65,3%

– Đạt mục tiêu tăng cường công tác y tế để đồng bào DTTS được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại, tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng đồng bào DTTS và MN.

(Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025)

Tháng 9/2024, Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79 được nhóm họp tại thành phố New York (Mỹ), với chủ đề: “Không bỏ lại ai phía sau: Cùng nhau hành động vì sự tiến bộ của hòa bình, phát triển bền vững và phẩm giá con người cho các thê hệ hiện tại và tương lai”. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, đại diện cho Việt Nam đã tới dự và có bài phát biểu quan trọng. Tại kỳ họp này, Liên hiệp quốc tiếp tục ghi nhận và đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam như một hình mẫu đi đầu thực hiện thành công các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ từ những năm 2000 và hiện đang tích cực triển khai các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030. Việt Nam cũng là nước đi đầu triển khai sáng kiến Một Liên hợp quốc thống nhất hành động, đồng thời tham gia tích cực vào các ưu tiên lớn của Liên hợp quốc về hoà bình, phát triển và bảo đảm quyền con người…

Từ những sự kiện trên và mối quan hệ giữa Liên hiệp quốc và Việt Nam, trong đó uy tín, vị thế, vai trò của Việt Nam trong Liên hiệp quốc và sự đánh giá, ghi nhận của Liên hiệp quốc đối với Việt Nam; đồng thời qua những số liệu từ kết quả thực hiện 3 Chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình xoá nhà tạm, nhà dột nát là những dẫn chứng, chứng cứ chính trị và pháp lý cao nhất, không thể chối cãi cho việc: Việt Nam đang hiện thực hóa rất có hiệu quả và thực chất quan điểm, chủ trương, đường lối an sinh xã hội phát triển vì con người, không để ai bị bỏ lại phía sau. Hoàn toàn bác bỏ và đập tan những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cho rằng: Việt Nam “bỏ rơi” người yếu thế, “không bảo đảm nhân quyền”, không nỗ lực thực thi đầy đủ cam kết thực hiện những Mục tiêu thiên niên kỷ từ những năm 2000 và những Mục tiêu vì sự phát triển bền vững (SDGs), cùng những giá trị phổ quát mà Liên hiệp quốc đã đưa ra trong Chương trình sự vì sự phát triển bền vững đến năm 2030./.


[1] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H.2022; tr.26-27.

 

ThS. Trần Hồng Quỳnh