Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) là lĩnh vực có quan hệ mật thiết nhất và trực tiếp nhất với thị trường lao động. Đó là vì, khác với giáo dục đại học (GDĐH), GDNN có mục đích đào tạo nhân lực từ trình độ sơ cấp trở lên có khả năng làm việc ngay và trực tiếp một công việc cụ thể trong thị trường lao động.
Phạm Đỗ Nhật Tiến
Nguyên trợ lý Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Những thách thức từ thị trường lao động
Trong vòng ba mươi năm qua, thị trường lao động ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu thay đổi nhanh chóng và khó lường trước những tác động của tiến trình toàn cầu hóa, kinh tế tri thức và gần đây là cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN4). GDNN bị chao đảo trước những đòi hỏi mới, phức tạp và biến động về kỹ năng người lao động. Điều đó khiến các nhà hoạch định chính sách, các nhà GDNN, và cả các doanh nghiệp đứng trước yêu cầu tư duy lại về GDNN với những câu hỏi như cần những kỹ năng gì để người học thành công trong một thị trường lao động ngày càng khó tính, bản chất và vai trò của GDNN phải thay đổi như thế nào để đồng hành với một thế giới việc làm thay đổi nhanh chóng.
Theo Cedefop (2017), các yếu tố bên ngoài có tác động quan trọng nhất đến thị trường lao động, qua đó tác động đến GDNN, trong ba thập kỷ qua bao gồm: sự thay đổi cơ cấu dân số, việc tái cấu trúc nền kinh tế, việc điều chỉnh chính sách công, tiến trình toàn cầu hóa, tiến bộ khoa học-công nghệ. Ba yếu tố đầu tiên liên quan đến bối cảnh kinh tế-xã hội quốc gia và do đó đòi hỏi GDNN có những đáp ứng cụ thể, riêng biệt. Hai yếu tố sau mang tính toàn cầu và vì vậy mặc dù mỗi hệ thống GDNN có những ứng phó khác nhau tùy theo điểm xuất phát, nhưng nổi bật vẫn là những tương đồng.
Bài viết này sẽ làm rõ những tương đồng trong ứng phó của các hệ thống GDNN trước các cơ hội và thách thức do tiến trình HNQT và CMCN4 đem lại. Trên cơ sở đó đề xuất những vấn đề cần quan tâm đổi mới và tổ chức thực hiện trong GDNN Việt Nam.
Hội nhập quốc tế về giáo dục nghề nghiệp, chủ trương, chính sách và những vấn đề đặt ra
Có thể nói hội nhập quốc tế ( HNQT) về giáo dục là giai đoạn phát triển mới, cao hơn và phức tạp hơn của hợp tác quốc tế về giáo dục. Sự khác biệt cơ bản là ở chỗ hợp tác quốc tế về giáo dục được thực hiện theo cơ chế phi thương mại, còn HNQT về giáo dục bao gồm cả hai cơ chế: cơ chế phi thương mại theo hợp tác quốc tế truyền thống và cơ chế thương mại theo quy định của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) mà Việt Nam đã cam kết sau khi gia nhập WTO.
Điều đó đã dẫn đến việc hình thành ở nước ta một thực tế giáo dục mới. Đó là việc xuất hiện thị trường giáo dục nói chung, thị trường GDNN nói riêng. GDNN đứng trước yêu cầu cạnh tranh để thu hút người học nhằm đảm bảo cho người học có những kỹ năng cần thiết để cạnh tranh trong một thị trường lao động đang chuyển đổi theo hướng quốc tế hóa.
Một thuận lợi lớn là chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về HNQT giáo dục nói chung, GDNN nói riêng khá rõ. Chúng ta đã có NĐ73 ngày 26/9/2012 quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Chúng ta cũng đã có Đề án HNQT về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020 theo QĐ 2448 ngày 16/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu :“Đến năm 2020, phát triển một số cơ sở GDĐH và dạy nghề đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và dạy nghề tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của các nước; tiến tới công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam với các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới…”
Riêng đối với GDNN, mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là: Tổng số trường nghề đạt cấp độ quốc tế là 10 trường; tiếp nhận và sử dụng 70 chương trình, giáo trình dạy nghề cấp độ khu vực ASEAN và 35 chương trình, giáo trình dạy nghề cấp độ quốc tế; đào tạo, bồi dưỡng 5500 lượt giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề phục vụ HNQT.
Luật GDNN cũng có một mục riêng về hợp tác quốc tế trong GDNN với mục tiêu “Nâng cao chất lượng GDNN theo hướng hiện đại, tiếp cận nền GDNN tiên tiến trong khu vực và trên thế giới”.
Với chủ trương, chính sách, thể chế nêu trên, hoạt động hợp tác quốc tế trong GDNN đã diễn ra sôi nổi với việc triển khai nhiều dự án, chương trình quan trọng như Dự án kỹ năng nghề Việt Nam của Canada, Chương trình đổi mới đào tạo nghề Việt Nam của Đức (GIZ), Chương trình gắn kết với doanh nghiệp của Đan Mạch, Dự án Áus4skills của Úc,Dự án Tăng cường lĩnh vực GDNN tại Việt Nam của JICA v.v…
Tuy nhiên quá trình triển khai chủ trương còn nhiều hạn chế. Thứ nhất, một kết quả đáng ghi nhận trong thời gian qua là Việt Nam đã ban hành Khung trình độ quốc gia (KTĐQG). Đó là công cụ quản lý hiện đại góp phần nâng cao tính minh bạch về chuẩn đầu ra của các trình độ đào tạo, mở đường cho việc công nhận lẫn nhau về trình độ, qua đó nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực trong khu vực và quốc tế, tuy nhiên đến nay KTĐQG vẫn chỉ là một cái khung, chưa được cụ thể hóa cho từng trình độ, từng ngành nghề và lĩnh vực đào tạo, khiến việc tổ chức thực hiện KTĐQG là không thể và mọi tác động tích cực hướng tới các chuẩn mực quốc tế trong GDNN chậm được thực hiện.
Thứ 2, cùng với việc học tập kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng KTĐQG, chúng ta cũng học tập trong việc phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN. Luật GDNN đã có những quy định khá rõ về vấn đề này, Tuy nhiên, đến nay việc triển khai thực hiện còn chậm chạp và lúng túng. Điều đó tác động tiêu cực đến khả năng ứng phó của cơ sở GDNN trước một thị trường lao động ngày càng có những đòi hỏi mới và cao hơn về kỹ năng người lao động.
Thứ 3, trong HNQT về GDNN, mục tiêu thường được đặt ra là cung cấp cho người lao động những kỹ năng theo chuẩn quốc tế để đáp ứng các yêu cầu của một thị trường lao động quốc tế hóa. Tuy nhiên, với trình độ kinh tế nước ta hiện nay, yêu cầu kỹ năng theo chuẩn quốc tế chỉ đặt ra trong phạm vi hẹp, giới hạn trong các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp hướng tới xuất khẩu. Còn lại đại bộ phận lao động làm việc trong một thị trường tạo bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những yêu cầu kỹ năng khác biệt. Vì vậy để việc cung cấp kỹ năng trong HNQT thực sự phù hợp, rất cần xây dựng một bản đồ kỹ năng để làm rõ yêu cầu kỹ năng cho từng trình độ và ngành nghề, trong từng loại doanh nghiệp. Điều này cũng chưa thể làm được chừng nào KTĐQG chưa tiếp tục được hoàn thiện.
Thứ tư, kinh nghiêm quốc tế hiện nay trong đào tạo nghề là đẩy mạnh đào tạo theo phương thức học nghề. Phương thức này hiện được coi là cả ba bên cùng thắng: doanh nghiệp thắng vì có nhân lực phù hợp; người học thắng vì có ngay việc làm tốt; nhà trường thắng vì đào tạo có hiệu quả (Lake, 2019). Đây cũng là phương thứclâu đời ở nước ta và vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt ở các làng nghề. Tuy nhiên, với xu thế chính quy hóa việc đào tạo nghề, bấy lâu nay chúng ta đã đặt trọng tâm vào đào tạo trường lớp và coi nhẹ học nghề. Đã đến lúc cần tư duy lại về các phương thức đào tạo, học tập kinh nghiệm quốc tế trong việc phát triển học nghề với các chương trình đào tạo, cùng hệ thống văn bằng chứng chỉ phù hợp nhằm khuyến khích người học theo đuổi học nghề.
Đổi mới giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh CMCN4
Nếu HNQT tác động tới thị trường lao động theo hướng đem đến cho thị trường này một chiều đo quốc tế thì tác động của CMCN4 mạnh hơn nhiều. Nó khiến thị trường lao động chuyển hóa sang một giai đoạn phát triển mới với việc hình thành thế giới việc làm 4.0.
Thế giới việc làm 4.0 là thế giới việc làm trong đó con người cạnh tranh với robot trong một môi trường làm việc số hóa và tự động hóa. Trong cuộc cạnh tranh này, robot sẽ thay thế con người trong một loạt công việc và nhiệm vụ lập đi lập lại, dù là trí óc hay chân tay, nói chung là những việc làm có thể thuật toán hóa. Nhưng chính nhờ được giải phóng khỏi những việc làm nhàm chán, con người sẽ có điều kiện và bắt buộc phải phát huy hết tiềm năng của mình để vượt lên robot trong những việc làm không thể hoặc chưa thể thuật toán hóa, cùng hàng loạt những việc làm mới, không lường trước được, sẽ nẩy sinh do tiến bộ công nghê cùng với sự thay đổi của quy trình sản xuất và nhu cầu xã hội. Dĩ nhiên, để được như vậy, người lao động không thể chỉ có các kỹ năng nghề nghiệp cụ thể mà còn phải có những kỹ năng rộng hơn, bao gồm các kỹ năng nền tảng tương đối rộng để ứng phó với sự thay đổi và những kỹ năng người (human skills) không thể thuật toán hóa, như giao tiếp, hợp tác, tư duy phê phán, sáng tạo, hiếu kỳ, kiên trì, bao dung.
Điều đó buộc GDNN phải đổi mới. Trước mắt, phải tái kỹ năng và nâng cao kỹ năng lực lượng lao động hiện có để đáp ứng những đòi hỏi về kỹ năng mới đang diễn ra ở mọi khâu của quá trình sản xuất, từ khâu lập kế hoạch, chuẩn bị nơi làm việc, đến vận hành thiết bị, giám sát quá trình, bảo đảm an toàn v.v…Về lâu dài, cần đổi mới căn bản GDNN, hướng tới mô hình mới gọi là GDNN 4.0. Đó là mô hình GDNN mở, linh hoạt và liên thông, với mục đích cung cấp cho người học những năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của thế giới việc làm 4.0, tạo điều kiện để người lao động thuận lợi và dễ dàng đến với GDNN, nâng cao trình độ kỹ năng suốt cuộc đời, theo điều kiện cụ thể, nhu cầu, nguyện vọng và sở thích cá nhân.
Tuy nhiên, sự xâm nhập của thế giới việc làm 4.0 vào thị trường lao động từng nước sẽ khác nhau. Chẳng hạn ở các nước thu nhập cao, nhìn chung có xu thế mất đi nhiều việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, nhưng lại tăng việc làm trong lĩnh vực dịch vụ. Ngược lại. ở các nước thu nhập trung bình vẫn có sự gia tăng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt đối với ngành chế tạo. Nhìn chung, tỷ lệ việc làm trong lĩnh vực công nghiệp ở các nước đang phát triển vẫn giữ ổn định, mặc dù có nhiều dự báo về mất việc làm gây ra bởi công nghệ (World Bank, 2019).
Vì thế, nhiều nước đang tìm cách cụ thể hóa GDNN4.0 trong việc đổi mới chương trình đào tạo, tổ chức trường lớp, quy trình đào tạo ban đầu và đào tạo thường xuyên, phương pháp sư phạm và đánh giá người học. Chẳng hạn 8 nước Châu Âu (Phần Lan, Đức, Ý, Lithuani, Hà Lan, Ba Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển) đã hợp tác với nhau triển khai dự án mang tên VET 4.0 giai đoạn 2016-2018, nhằm xác định những năng lực cần thiết cho giáo viên, huấn luyện viên và học viên GDNN để đối mặt với những thách thức của thế giới việc làm 4.0, từ đó đề xuất các học phần tương ứng cho giáo viên, huấn luyện viên và học viên (VET4.0 Research Report, 2018).
Ở Việt Nam, GDNN cũng đang đổi mới theo xu thế chung. Luật GDNN 2014 đã có quy định chính sách của Nhà nước về phát triển GDNN như sau: “Phát triển hệ thống GDNN mở, linh hoạt, đa dạng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, liên thông giữa các trình độ GDNN và liên thông với các trình độ đào tạo khác”. Hiển nhiên đó là chính sách có tầm nhìn chiến lược, hướng tới GDNN 4.0 để GDNN ứng phó thành công với những thách thức của CMCN4.
Tuy nhiên, hiện nay nhận thức về GDNN mở còn khá phân kỳ, việc đưa các tiến bộ của GDNN mở như tài nguyên giáo dục mở (OER), khóa học trực tuyến mở đại chúng (MOOC) vào dạy và học vẫn còn là bước khở đầu đầy khó khăn.
Điều đáng quan tâm hơn cả là việc phân tích sâu những thay đổi của thị trường lao động trong tương lai gần, những yêu cầu mới về kỹ năng, từ đó đặt ra đổi mới chương trình đào tạo, tổ chức trường lớp, đổi mới cách dạy, cách học, cách đánh giá vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Trên cơ sở điều tra xã hội học thông qua ý kiến doanh nghiệp, các chuyên gia của Diễn đàn kinh tế thế giới đã cung cấp cho Việt Nam bức tranh tham khảo về sự vận động của việc làm giai đoạn 2018-2022 với một số lưu ý sau (World Economic Forum, 2018):
- Về áp dụng công nghệ mới: Tỷ lệ doanh nghiệp dự kiến áp dụng là 87% đối với phân tích và khai thác dữ liệu lớn, 81% đối với IoT, 81% đối với phát triển thị trường dựa vào app và web, 76% đối với máy học, 68% đối với điện toán đám mây, 61% thương mại số v.v…
- Về nhu cầu tái kỹ năng của người lao động: 47% không cần, 11% cần 1 tháng, 14% cần 1-3 tháng, 10% cần 3-6 tháng, 9% cần 6-12 tháng, 9% cần trên 1 năm.
- Về cách đáp ứng nhu cầu chuyển đổi kỹ năng: tỷ lệ doanh nghiệp dự kiến áp dụng là 87% đối với tự động hóa công việc, 87% thuê lao động cơ hữu có năng lực phù hợp với công nghệ mới, 82% giữ lại lao động hiện có, 69% chuyển giao một số công việc qua hợp đồng thuê ngoài, 68% mong lao động hiện có nâng kỹ năng theo yêu cầu công việc, 64% thuê lao động có thời hạn với năng lực phù hợp công nghệ mới, 61% thuê lao động tự do với năng lực phù hợp,
- Kết luận
Yêu cầu bức thiết hiện nay không phải là đổi mới về chủ trương, chính sách mà đổi mới về tổ chức thực hiện. Cứ Luật GDNN và những vấn đề được đặt ra từ bài viết này, cần tập trung vào một số ưu tiên sau:
Một là sớm hoàn thiện và tổ chức thực hiện KTĐQG với các chuẩn đầu ra được cụ thể hóa cho từng trình độ và từng ngành nghề trên cơ sở đồng thuận của các cơ quan quản lý, các cơ sở GDNN, các cơ sở GDĐH, các doanh nghiệp và các hội nghề nghiệp. Chỉ khi đó GDNN mới có được bản đồ năng lực hành nghề cần thiết để các chương trình đào tạo hướng tới nhằm đáp ứng yêu cầu biến động và liên thông của thị trường lao động trong bối cảnh HNQT và CMCN4.
Hai là triển khai thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN công lập. Hiện trong Luật GDNN có một số quy định về quyền tự chủ mà cơ sở GDNN được thực hiện ngay không cần chờ nghị định hướng dẫn. Đó là tự chủ trong tuyển sinh; tổ chức biên soạn hoặc lựa chọn và phê duyệt chương trình đào tạo các trình độ GDNN; tổ chức biên soạn hoặc lựa chọn giáo trình; duyệt giáo trình để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức; in phôi và cấp bằng, chứng chỉ đào tạo cho người học; quản lý và sử dụng tài sản hình thành từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Riêng đối với cơ sở GDNN công lập tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện được chủ động xây dựng và quyết định mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh. Các quyền tự chủ này cần tổ chức triển khai ngay để các cơ sở GDNN được chủ động trong hoạt động đào tạo.
Ba là, từng bước xây dựng GDNN mở trên cơ sở áp dụng mạnh tiến bộ của công nghệ thông tin trong dạy và học, triển khai đào tạo trực tuyến, phát triển các OER, khai thác các MOOC, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động cập nhật, nâng cao kỹ năng suốt cuộc đời./.