Việc gắn kết và hợp tác giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng đầu trong các lĩnh vực điển hình sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đồng Văn Ngọc
Hiệu trưởng Trường cao đẳng nghề Cơ diện Hà Nội
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nói chung và đào tạo nghề chất lượng cao nói riêng luôn đòi hỏi các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới, cập nhật các tiêu chuẩn nghề nghiệp, cập nhật công nghệ nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng tốt hơn với các yêu cầu khắt khe của thị trường lao động.
Do vậy, việc gắn kết và hợp tác giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng đầu trong các lĩnh vực điển hình sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là mối quan hệ mang lại lợi ích cho cả hai phía.
Một mặt, doanh nghiệp có thể tuyển dụng được nguồn nhân lực có chất lượng tốt từ nhà trường thông qua các hoạt động hợp tác, hỗ trợ để nâng cao chất lượng tiêu chuẩn nghề nghiệp. Mặt khác, nhà trường có được sự hỗ trợ của doanh nghiệp về các tiêu chuẩn công nghiệp mới, các yêu cầu tuyển dụng mới và những sự hỗ trợ cần thiết về công cụ, máy móc hướng tới đào tạo nghề nghiệp chất lượng cao.
Thực tế, trong nhiều năm qua, với sự kiên định và nỗ lực, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã cố gắng xây dựng một mạng lưới rộng lớn trong việc hợp tác với các doanh nghiệp trong các lĩnh vực nghề nghiệp điển hình như: Cơ khí, Điện, Tự động hóa, Điện tử, Công nghệ ô tô, … và đạt được những hiệu quả nhất định tại các đơn vị khác nhau. Tuy sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp còn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của hai phía nhưng cũng đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc định hướng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường lao động.
THIẾU CƠ CHẾ HỢP TÁC GIỮA DOANH NGHIỆP VỚI CƠ SỞ GDNN
Theo Báo cáo giáo dục nghề nghiệp Việt Nam, năm 2017, chỉ có khoảng 7,5% doanh nghiệp có tham gia phối hợp với nhà trường trong đào tạo, đó cũng là lý do dẫn đến kết quả trong Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI (2018) khi khảo sát hơn 11.000 doanh nghiệp thì có 71% các doanh nghiệp cho rằng chất lượng đào tạo nhân lực kĩ thuật đáp ứng một phần (67%), không đáp ứng yêu cầu (4%).Đồng thời các doanh nghiệp trình bày khó tuyển dụng lao động kỹ thuật (74% doanh nghiệp cho biết gặp khó khăn khi tuyển dụng vị trí cán bộ kỹ thuật; riêng các vị trí giám sát và quản lý, lần lượt có 84% và 91% doanh nghiệp trả lời là rất khó tuyển dụng), nhưng sau khi tuyển dụng, người lao động lại thường ”nhảy việc”, nghỉ việc làm nản lòng các doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nói rằng, không những nội dung chương trình đào tạo theo nghĩa hẹp (curriculum) hiện chưa theo sát nhu cầu của doanh nghiệp và còn thiếu các hoạt động phối hợp để quản lý phát triển chương trình đào tạo theo nghĩa rộng hơn là các khóa đào tạo (programme) từ khâu xác định nhu cầu đào tạo, lập kế hoạch và thiết kế nội dung các khóa đào tạo, tổ chức đào tạo và kiểm tra đánh giá các khóa đào tạo.
Mặc dù GDNN có nhiều lợi thế lớn khi đào tạo tập trung nhiều vào cung ứng nguồn nhân lực có khả năng vận hành và làm việc ngay lập tức, tuy nhiên,một số quy định hiện hành có thể hạn chế sự tham gia của doanh vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp như quy định người hướng dẫn tại doanh nghiệp phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm, chưa quy định chế độ rõ ràng cho người được phân công giảng dạy ở doanh nghiệp khi tiếp cận sinh viên thực tập chương trình chất lượng cao.
Mặt khác, các nội dung quản lý phát triển chương trình đào tạo có sự phối hợp của doanh nghiệp chưa có đường hướng rõ ràng, mối quan hệ lỏng lẻo, không thường xuyên và kết quả chưa cao. Nhà trường và doanh nghiệp chỉ tập trung phát triển nội dung chương trình đào tạo là curriculum mà chưa quan tâm đến việc thiết lập các khóa đào tạo tổng thể nhằm đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp điển hình của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp quy mô lớn. Hiện chưa có cơ chế phối hợp giữa trường và doanh nghiệp trong quản lý phát triển chương trình đào tạo, nhiều khi áp dụng 01 cơ chế rập khuôn cho tất cả các doanh nghiệp là không phù hợp làm giảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý giữa 2 bên.Các tiêu chí hợp tác chỉ tập trung ở mối liên kết đào tạo như đánh giá thực tập, sự hỗ trợ của 2 bên mà chưa có tiêu chí cho quản lý phát triển chương trình đào tạo từ khâu lập kế hoạch xác định nhu cầu đào tạo đến khi thực thi và đánh giá hoàn thành một chu trình giữa trường và doanh nghiệp.
VIỆC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QỦA HỌC TẬP CỦA HSSV CỦA CƠ SỞ GDNN CHƯA GẮN VỚI DOANH NGHIỆP
Về phía cơ sở GDNN, có nơi chưa có bộ phận chuyên trách giúp việc cho trường và doanh nghiệp để quản lý phát triển chương trình đào tạo nên chưa gắn kết, bổ trợ cho nhau trong phát triển nhân lực phục vụ sản xuất-kinh doanh. Mặt khác, doanh nghiệp chưa phát huy đầy đủ vai trò khi tham gia vào các nội dung quản lý phát triển chương trình đào tạo của trường, như: phối hợp huớng nghiệp, tuyển sinh, tham gia lập kế hoạch đào tạo, thiết kế chương trình đào tạo, tham gia giảng dạy, phối hợp đánh giá kết quả đào tạo,…
Năng lực xác định chương trình đào tạo, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, đánh giá chương trình đào tạo theo tiếp cận quan hệ trường và doanh nghiệp của cán bộ quản lý và giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu. Thông tin 2 chiều giữa nhà trường và doanh nghiệp còn rời rạc, bị động gây khó khăn cho cả 2 bên khi xác định nghiên cứu đào tạo, tư vấn đào tạo cũng như khi tuyển dụng, bố trí lao động.Nhận thức về quản lý phát triển chương trình đào tạo còn khác biệt lớn, nhất là về tầm quan trọng của doanh nghiệp với trường, của doanh nghiệp tư nhân trong nước khác với doanh nghiệp FDI.
Việc triển khai đào tạo với sự phối hợp của doanh nghiệp chưa được quan tâm, hoạt động giảng dạy của giáo viên ở các trường cao đẳng hiện nay chưa thật sự có hiệu quả, chưa áp dụng giữa nội dung trên lớp với thực tiễn lao động trong doanh nghiệp; việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh – sinh viên vẫn theo phương pháp truyền thống qua các bài thi trên lớp, chưa thực sự gắn với doanh nghiệp.
GIẢI PHÁP ĐỂ HỢP TÁC HIỆU QUẢ GIỮA CƠ SỞ GDNN VÀ DOANH NGHIỆP
Yếu tố quyết định sự thành công của mối quan hệ hợp tác giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp là phải mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Cần nhìn nhận rành mạch và rõ ràng những mong muốn và lợi ích hai bên có thể đạt được thông qua hoạt động liên kết.
Lợi ích đối với nhà trường
Việc gắn kết với doanh nghiệp thực tế mang lại lợi ích rất lớn đối với nhà trường. Các doanh nghiệp có thể giúp cho nhà trường cập nhật các tiêu chuẩn nghề nghiệp mới, cập nhật công nghệ mới đồng thời giúp cho nhà trường hiểu rõ các tiêu chí tuyển dụng của từng doanh nghiệp và lý do tại sao họ đưa ra tiêu chuẩn đó. Các yếu tố này là cơ sở để nhà trường hiểu rõ vị trí của mình trong bối cảnh chung và phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo theo từng năm, loại bỏ những nội dung không còn phù hợp, đưa vào các nội dung đào tạo mới qua đó đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của doanh nghiệp.
Mặt khác, các doanh nghiệp có thể giúp nâng cao trình độ giáo viên và sinh viên thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tế tại doanh nghiệp trong đó bao gồm một yếu tố quan trọng là doanh nghiệp tham gia vào việc đánh giá kỹ năng của giáo viên và học sinh. Hình thức hợp tác này sẽ nâng cao chất lượng nguồn lực của nhà trường.
Bên cạnh các yếu tố liên quan đến chuyên môn và tiêu chuẩn nghề nghiệp, các doanh nghiệp có thể hỗ trợ nguồn tài chính cần thiết giúp nhà trường phát triển môi trường giáo dục, mở rộng các hoạt động giáo dục bên cạnh các hoạt động truyền thống.
Sau tất cả, sinh viên nhà trường là người được hưởng lợi nhiều nhất từ sự gắn kết hai bên này. Các sinh viên được đào tạo theo tiêu chuẩn cập nhật từ doanh nghiệp và có cơ hội tìm kiếm việc làm với tỷ lệ thành công cao sau khi tốt nghiệp.
Lợi ích đối với doanh nghiệp
Việc hợp tác với nhà trường sẽ giúp cho doanh nghiệp tiếp cận được nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và đáp ứng các tiêu chí tuyển dụng của doanh nghiệp trong bối cảnh doanh nghiệp đang cần nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và công nghệ mới.
Song song với đó doanh nghiệp có thể kết hợp với nhà trường đào tạo ngắn hạn nguồn nhân lực của doanh nghiệp nhằm nâng cao trình độ kỹ năng nghề và cập nhật kiến thức mới đồng thời mối quan hệ hợp tác với nhà trường cũng sẽ là một kênh quảng bá và nâng cao uy tín thương hiệu của doanh nghiệp.
Ngoài lĩnh vực đào tạo, doanh nghiệp có thể cùng với nhà trường hợp tác sản xuất nhằm khai thác các máy móc, thiết bị của nhà trường phục vụ cho lĩnh vực sản xuất đồng thời tạo cơ hội cho giáo viên và sinh viên tiếp cận các công việc sản xuất sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường.
NHÀ NƯỚC CẦN CÓ CHÍNH SÁCH QUI ĐỊNH TRÁCH NHIỆM CỦA DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC PHỐI HỢP VỚI CƠ SỞ GDNN TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
Do vậy, cần có cơ chế phối hợp ba bên: Nhà nước – Doanh nghiệp – Cơ sở GDNN để liên kết đào tạo với doanh nghiệp, đặt hàng đào tạo và tham gia các hoạt động GDNN tại cơ sở. Cần đổi mới và tăng cường công tác quản lý của nhà nước trong việc xây dựng mối gắn kết bền vững giữa nhà trường và doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách, quy định phối hợp chặt chẽ về nguồn nhân lực giữa nhà trường và doanh nghiệp. Tăng quyền tự chủ cho nhà trường. Nhà trường cần được tự chủ và chủ động về quy mô đào tạo, hình thức tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo, thu chi nguồn tài chính. Khuyến khích cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo để tăng động lực phát triển giữa các nhà trường với nhau về chất lượng sản phẩm đào tạo, uy tín cũng như hình ảnh, thương hiệu của nhà trường. Cần có trung tâm dự báo nhu cầu đào tạo nhân lực có sự phối hợp với các ngành ở địa phương và tham gia của nhà trường và doanh nghiệp để đảm bảo gắn chặt giữa đào tạo với sử dụng. Cần có cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với doanh nghiệp và quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về nhu cầu lao động và hỗ trợ trong quá trình đào tạo.