Chưa khi nào vai trò của đào tạo kỹ năng lao động, bảo đảm an sinh xã hội thúc đẩy phục hồi kinh tế, tăng trưởng bền vững lại được quan tâm như tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 với hàng loạt đề xuất chính sách và tài chính có tính đột phá.
Đề xuất 2 gói an sinh xã hội hàng chục nghìn tỷ đồng
Theo tính toán của nhóm nghiên cứu của Thường trực Ủy ban Kinh tế và các chuyên gia, tổng thể các gói hỗ trợ tài khóa, tiền tệ, an sinh xã hội và các chính sách khác vào khoảng 844.000 tỷ đồng về danh nghĩa, còn về thực chi vào khoảng 445.000 tỷ đồng, tương đương 5,12% GDP. Gói hỗ trợ đề xuất chiếm khoảng 10,38% GDP. (Cụ thể, trong đó, chính sách tài khóa 678.395 tỷ đồng, chính sách tiền tệ 65.000 tỷ, chính sách an sinh xã hội 12.800 tỷ, chính sách khác 36.650 tỷ, đầu tư của SCIC vào doanh nghiệp 50.000 tỷ đồng.
Tại Diễn đàn, PGS.TS.Bùi Quang Tuấn – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam tham luận “Phục hồi và phát triển kinh tế bền vững thông qua thúc đẩy chuyển đổi số ở Việt Nam” đã chỉ ra hàng loạt thách thức mà kinh tế thế giới hiện đang đối mặt.
Đồng thời cũng nêu rõ thực trạng nền kinh tế Việt Nam năm 2021 cùng các vấn đề đặt ra hiện nay như nguy cơ lạm phát kép, nguy cơ nợ xấu.
Để phục hồi tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững theo hướng số hóa, PGS.TS Bùi Quang Tuấn chỉ rõ những lợi ích của phát triển kinh tế số đối với quốc gia là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển các ngành/lĩnh vực mới, tạo việc làm, thay đổi cơ cấu việc làm, nâng cao chất lượng lực lượng lao động, tăng chất lượng dịch vụ công.Theo đó ông kiến nghị các giải pháp:
Thứ nhất, cần ưu tiên nguồn lực củng cố hệ thống y tế trên toàn quốc. Cụ thể, gói củng cố hệ thống y tế cần khoảng 76.000 tỷ đồng.
Thứ hai, cần tiếp tục củng cố hệ thống an sinh xã hội. Cụ thể, gói củng cố hệ thống an sinh xã hội cần khoảng 58.000 tỷ đồng.
Thứ ba, cần hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn, trong đó gói hỗ trợ doanh nghiệp cần khoảng 244.000 tỷ đồng cùng với việc hạ mặt bằng lãi suất là rất cấp thiết.,
Thứ tư, tiếp tục cải cách thể chế, giải quyết những điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công. Gói đầu tư công mà PGS.TS. Bùi Quang Tuấn đề xuất có quy mô là 288.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2 năm 2022-2023.
Như vậy, tổng gói cứu trợ nền kinh tế dựa trên 4 lĩnh vực ưu tiên dự kiến có giá trị khoảng 666.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 8% tổng giá trị GDP nền kinh tế năm 2020.
Các chuyên gia đề xuất hai gói hỗ trợ tiền thuê nhà và đào tạo nghề
PGS.TS. Bùi Quang Tuấn nhấn mạnh, để đảm bảo các biện pháp trên thực hiện thành công, cần đảm bảo sự phối hợp để thiết kế và thực hiện các chính sách giữa các bộ ngành thuộc Chính phủ và Quốc hội. Các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan tham mưu cần phối hợp chặt chẽ trong việc tính toán nhằm đảm bảo dòng tiền hỗ trợ thực sự được đưa vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và hộ gia đình thay vì chuyển qua kênh đầu cơ các tài sản tài chính rủi ro, vốn không đóng góp cho phục hồi tăng trưởng.
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính – tiền tệ Quốc gia tại phiên thảo luận cấp cao thông qua tham luận về “Một số gợi ý chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội” ông đề xuất thêm 2 gói chính sách: Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trở lại doanh nghiệp làm việc vào khoảng 6.000 tỷ đồng; hỗ trợ đào tạo nghề vào khoảng 6.800 tỷ đồng với tổng giá trị hỗ trợ khoảng 13.000 tỷ đồng. Ngoài ra, xem xét giảm tiền điện, nâng cao năng lực công nghệ đổi mới sáng tạo cho doanh nghiệp… với khoảng 38.000 tỷ đồng.
Theo TS Cấn Văn Lực, tổng thể các gói hỗ trợ tài khóa, tiền tệ, an sinh xã hội và các chính sách khác vào khoảng 844.000 tỷ đồng về danh nghĩa, còn về thực chi vào khoảng 445.000 tỷ đồng, tương đương 5,12% GDP.
“Gói hỗ trợ này sẽ đủ sức hấp thụ trong thời gian tới, và khi áp dụng gói chính sách này, chúng ta cần chấp nhận thâm hụt ngân sách ít nhất 0,1 điểm % cho mỗi năm”, ông Lực nói.
Để huy động nguồn lực cho gói hỗ trợ này, theo ông Lực, có thể huy động từ việc tiết giảm chi phí (khoảng 29.000 tỷ đồng); thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn (80.000 tỷ đồng); cho phép Bảo hiểm tiền gửi, Bảo hiểm xã hội dùng tiền nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ (hơn 51.000 tỷ đồng); phát hành trái phiếu Chính phủ mà Ngân hàng Nhà nước có thể mua (hơn 220.000 tỷ đồng); rà soát các quỹ ngoài ngân sách (20.000 tỷ đồng); sử dụng một phần dự trữ ngoại hối nếu cần (45.400 tỷ đồng).
“Như vậy, Việt Nam phải huy động được khoảng 445.000 tỷ đồng, tương đương hơn 5%GDP cho 2 năm tới” – TS Cấn Văn Lực đề xuất.
Thùy Linh